Đường dẫn truy cập

Liệu Việt Nam có thể thay Trung Quốc làm công xưởng thế giới?


Công nhân làm việc ở nhà máy xe hơi Ford ở tỉnh Hải Dương
Công nhân làm việc ở nhà máy xe hơi Ford ở tỉnh Hải Dương

Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung dai dẳng kéo theo sự dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc đã khiến Việt Nam trở thành một trong những ứng viên lớn nhất để lấp vào chỗ trống Trung Quốc để lại, nhưng tới nay Việt Nam không hề tận dụng được cơ hội này mà chỉ hưởng được lợi ích nhỏ mà thôi, các nhà quan sát nhận định.

Không đủ khả năng?

Trao đổi với VOA, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa ở tiểu bang California, Hoa Kỳ, nói rằng cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đối với Việt Nam ‘tự dưng là món quà từ trên trời rơi xuống’ nhưng bản thân quốc gia này lại không tận dụng được.

Ông Nghĩa cho rằng Việt Nam có lợi thế là giá nhân công rẻ hơn so với Trung Quốc nhưng ‘điều quan trọng hơn là năng suất lao động’ bởi vì, theo ông Nghĩa, nếu giới đầu tư trả lương đỡ tốn kém hơn nhưng người lao động làm năng suất ít hơn thì cũng như không.

“Khi xảy ra chiến tranh thương mại, người ta mới thấy rằng khả năng sản xuất của Việt Nam chưa đủ bù đắp cho sự thiếu hụt trong tranh chấp giữa Mỹ với Trung Quốc,” ông nói.

“Dân số Việt Nam cũng chỉ bằng một tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc thì làm sao thay Trung Quốc cho được.”

Ngoài ra, ông Nghĩa cho rằng Việt Nam ‘đầu tư quá ít vào cơ sở hạ tầng’ khiến cho hệ thống hạ tầng của Việt Nam ‘tản mát chứ không kết hợp thành mạng lưới để yểm trợ phát triển kinh tế’.

“Từ nhà máy sản xuất ra đến hải cảng để xuất khẩu rất tốn kém.”

Tuy nhiên, ông nói thêm rằng quan trọng hơn nữa chính là ‘cơ sở hạ tầng vô hình’, tức là luật lệ, thủ tục pháp lý, guồng máy hành chính – tất cả những yếu tố này có yểm trợ các nhà đầu tư nước ngoài hay không.

“Ở Việt Nam tình trạng tham nhũng tràn lan,” ông nói.

Theo ông Nghĩa, không phải đợi đến khi có chiến tranh thương mại mà cách nay 5 năm khi lợi thế nhân công giá rẻ của Trung Quốc đã hết, giới đầu tư thế giới ‘đã nhìn qua các nước khác’ và ‘một trong những nước đó là Việt Nam’. Tuy nhiên, khi đó các nhà lãnh đạo Việt Nam ‘chưa nhìn ra lợi thế đó’.

“Việt Nam trong giai đoạn trước mắt được hưởng lợi nhỏ từ chiến tranh thương mại nhưng quên rằng ngoài nước mình thì nhiều quốc gia khác cũng đi tìm lợi thế,” ông nói. “Khi giới doanh gia trên thế giới chuyển ra khỏi thị trường Trung Quốc, họ cũng nghĩ đến Bangladesh, Mexico, Indonesia và Malaysia.”

‘Lấy ngắn nuôi dài’

Kinh tế gia này cho rằng Việt Nam có điểm nổi trội hơn các đối thủ cạnh tranh là ‘cố gắng hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu’ và ‘nằm sát Trung Quốc và nằm sát luồng giao thương của các nước đông nam Á nên dễ dàng buôn bán với Trung Quốc’.

Tuy nhiên, Việt Nam ‘không nên chỉ dựa vào nhân công giá rẻ để rồi chiếm lĩnh một phần thị phần của Trung Quốc như dệt may, giày dép’ vì đây chỉ là ‘những sản phẩm hạ đẳng (tức không có giá trị nhiều)’.

Trung Quốc đang từ chỗ công xưởng của thế giới bước lên trình độ sản xuất cao hơn để sản xuất những sản phẩm có giá trị cao hơn, và như vậy, “nếu Việt Nam chỉ nhặt những gì Trung Quốc không ăn được nữa thì chỉ có làm được những cái gì hạ đẳng thôi.”

Do đó, chuyên gia này cho rằng Việt Nam cần phải ‘lấy ngắn nuôi dài’, tức là trong khi theo đuổi những sản phẩm xuất khẩu giá trị thấp không cần nhiều trình độ hay kỹ năng thì cần lấy lợi tức có được để phát triển những ngành sản xuất có giá trị cao.

“Việt Nam phải giải quyết vấn đề giáo dục và đào tạo,” ông Nghĩa nói, ngụ ý rằng Việt Nam nên xây dựng lực lượng lao động có trình độ và tay nghề cao.

‘Nạn nhân của chính mình’

Hãng tin Bloomberg có bài phân tích nhận định rằng ‘Việt Nam trở thành nạn nhân của chính mình trong chiến tranh thương mại’.

Gọi Việt Nam là ‘động cơ tăng trưởng của đông nam Á’, Bloomberg nói nước này ‘có tầng lớp trung lưu trẻ và ngày càng lớn mạnh, một loạt các hiệp định thương mại tự do và ngành công nghiệp chế tạo đang bùng nổ.’

“Các doanh nghiệp hàng đầu thế giới đang xếp hàng để đầu tư vào nước này khi các chuỗi cung ứng dịch chuyển từ nước Trung Quốc láng giềng vốn đóng vai trò là công xưởng của thế giới trong suốt hai thập kỷ,” bài báo viết.

Tuy nhiên, theo Bloomberg, Việt Nam đang bắt đầu cảm thấy thực tế không đáp ứng được kỳ vọng. “Ngày càng có nhiều doanh nghiệp phàn nàn về đường tắc xe và cảng bị nghẽn, chi phí thuê đất đai và lao động tăng vọt, và các quy định không được nới lỏng nhanh chóng,” bài báo của Bloomberg cho biết.

Theo hãng tin này thì công ty Tapestry Inc., vốn sở hữu của các thương hiệu Coach và Kate Spade, đã than phiền về đầu tư cơ sở hạ tầng thiếu hụt đã khiến một số container hàng của họ bị nằm trên biển. Eclat Textile Co., nhà cung cấp cho Nike, cho biết họ cần đa dạng hóa ra ngoài Việt Nam, bao gồm cả các địa điểm rẻ hơn.

Nếu Việt Nam không đẩy nhanh tiến độ để thu hẹp khoảng cách cơ sở hạ tầng, thì nước này có nguy cơ để mất vị thế ‘tiểu Trung Quốc’ vốn đã thu hút nhiều khách hàng là nhà cung cấp đồ chơi của Bain & Co ra khỏi Trung Quốc kể từ năm 2015, ông Gerry Mattios, phó chủ tịch Bain đóng ở Singapore, nói với Bloomberg. Chi phí có thể lớn hơn lợi nhuận và điều này sẽ đẩy các hãng xưởng đến Sri Lanka hoặc Campuchia, ông nói.

Hiện tại, dòng tiền vẫn tiếp tục đổ vào. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân tăng 6,3% lên 12 tỷ USD trong 8 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu của chính phủ, với số lượng dự án đăng ký mới tăng 25% lên đến 2.406 dự án.

Cảng tắc nghẽn

Cơ sở hạ tầng là thách thức lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là các hải cảng. Trung Quốc tuyên bố sở hữu 6 trong số 10 cảng hàng đầu thế giới về lưu lượng container - bao gồm Thượng Hải ở vị trí số 1 - trong khi hai cảng lớn nhất của Việt Nam là ở Thành phố Hồ Chí Minh và cảng Cái Mép, có hạng lần lượt là 25 và số 50, theo dữ liệu do Bloomberg Intelligence (BI) tập hợp.

Thị phần lưu thông container toàn cầu của Việt Nam trong năm 2017 chỉ là 2,5% so với 40% của Trung Quốc. Năng lực vận chuyển container cần tăng trưởng với tốc độ gần gấp đôi tốc độ 10% -12% của niên kỷ trước, Bloomberg dẫn nghiên cứu của BI cho thấy.

“Dòng tweet của Tổng thống Mỹ Donald Donald Trump rằng Việt Nam là ứng cử viên cho sự dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc đòi hỏi một quá trình dài hơi. Việt Nam thiếu cơ sở hạ tầng hàng hải, hải cảng container lớn và mạng lưới vận chuyển cần thiết để tăng trưởng nhanh chóng năng lực xuất khẩu. Không có khả năng nước này vươn đến mức bộ máy thương mại đã có địa vị vững vàng của Trung Quốc trong chỉ vài năm,” Lee Klaskow, chuyên viên phân tích của Bloomberg Intelligence, được Bloomberg dẫn lời nói.

Chính phủ ước tính sẽ tốn khoảng 80 - 100 nghìn tỷ đồng (3,44 - 4,31 tỷ đô la Mỹ) để phát triển các cảng. Các thỏa thuận lớn – về xây dựng cảng mới hoặc cải tạo các cảng cũ - vẫn chưa đi đến đâu.

Cảng biển tắc nghẽn có nghĩa là chi phí lưu kho tăng và dây chuyền sản xuất ít đa dạng hơn – chỉ giới hạn ở hàng hóa không bị ảnh hưởng bởi thời gian, theo phân tích của BI.

Việt Nam cần làm gì để vượt qua những thách thức này? Theo phân tích của BI, đó là đầu tư lớn vào kho, cảng biển, nhà ga đường sắt và kho container nội địa. BI cũng đề xuất thành lập công ty vận tải container quốc gia hoặc bán quốc gia để hỗ trợ thương mại xuyên biên giới quy mô lớn.

Nhu cầu chắc chắn đang tăng lên. Theo trang web của Cục Hàng hải Việt Nam, hơn 530 triệu tấn hàng hóa đã được vận chuyển qua cảng biển Việt Nam vào năm ngoái, tăng 20% so với một năm trước đó. Khối lượng hàng hóa xuất khẩu được xử lý tăng 15% lên tới 142,8 triệu tấn. Và 18,1 triệu container TEU đã được vận chuyển vào năm ngoái, tăng 26% so với năm trước.

Giá đất đai

“Trong tình hình hiện tại, Việt Nam chắc chắn không thể đáp ứng nhu cầu của làn sóng các công ty chuyển đến,” bà Tsai Wen Wen Jui, chủ tịch hãng sản xuất yên xe đạp có trụ sở tại Đài Loan, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg tại văn phòng của họ ở Bình Dương. “Ngay cả khi 5% công ty của Đài Loan ở Trung Quốc chuyển đến Việt Nam, cơ sở hạ tầng sẽ bị quá tải.”

DDK Group đã liên doanh với Becamex IDC để quản lý một khu vực rộng 200 mẫu trong khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương chỉ dành cho các công ty Đài Loan. Dù hài lòng với chất lượng đường sá bên trong khu công nghiệp, nhưng bà Tsai than phiền đường cao tốc không đủ cho lưu thông vốn đang ngày một tắc nghẽn.

Giá thuê đất cũng là hạn chế, bà Tsai nói. Chi phí thuê đất trong khu công nghiệp Bàu Bàng đã tăng gấp đôi lên 80 đô la mỗi mét vuông so với ba năm trước. Giá thuê tại một số khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương đã tăng lên 150 đô la mỗi mét vuông từ 65 đô la hồi năm 2016, bàTsai nói thêm.

Không chỉ ở Bình Dương mới sốt đất. Giá thuê bất động sản công nghiệp ở một số tỉnh đã tăng ở mức hai con số so với cùng kỳ năm ngoái trong nửa đầu năm 2019, trong đó Bình Dương tăng 54,6% và Tây Ninh tăng 31,1%.Ở Hải Dương giá thuê đã tăng 29,4%, theo dữ liệu do nhà cung cấp dịch vụ bất động sản Savills Plc tổng hợp. Tỷ lệ lấp đầy ở các khu công nghiệp này cũng tăng vọt, dẫn đầu là Tây Ninh với tốc độ tăng trưởng 63,6%, theo Bloomberg.

Chi phí thuê nhà cũng đã tăng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, với thành phố lớn nhất nước có mức tăng giá 20% đối với nhà chung cư trong quý hai so với năm trước, còn thị trường nhà ở sơ cấp ở Hà Nội đã tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Quy định phiền hà và quan liêu

Việt Nam đã có những bước tiến dài trong thước đo Mức độ dễ dàng kinh doanh của Ngân hàng Thế giới và Chỉ số năng lực cạnh tranh của Diễn đàn kinh tế thế giới. Danh tiếng thân thiện với doanh nghiệp đã được hỗ trợ bằng cải cách đầu tư, tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước và các chính sách thương mại tự do, tờ Bloomberg nói.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp phản bác rằng vẫn còn nhiều việc phải làm để triệt tận gốc tham nhũng và các hệ thống quan liêu mà các công ty bên ngoài khó vượt qua.

Việt Nam đạt 33 điểm trên thang điểm từ 0 đến 100, với 0 là vô cùng tham nhũng và 100 là tuyệt đối sạch, theo chỉ số tham nhũng hàng năm của Tổ chức Minh bạch Quốc tế năm 2018. Thứ hạng đó ít thay đổi so với năm 2015 – nó cho thấy tiến bộ chậm chạp trong nỗ lực chống hối lộ nơi chính quyền, bất chấp chiến dịch chống tham nhũng.

Lực lượng lao động

Dân số là lợi thế của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ phận Dân số Liên hiệp quốc, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động, tức từ 15 đến 64 tuổi, của Việt Nam được duy trì ở mức cao hơn mức trung bình trên toàn châu Á và toàn thế giới cho đến năm 2025. Và chính phủ Việt Nam đã bày tỏ mong muốn nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động từ trong trường học cho đến các nhà máy.

Tuy nhiên Việt Nam khó lòng cung cấp lực lượng lao động có trình độ cao cho các công ty công nghệ đang chuyển đến ngay cả khi tăng cường nỗ lực đào tạo, ông Huang Yung Cheng, Chủ tịch Hội đồng Thương mại Đài Loan tại tỉnh Bắc Ninh, nói với Bloomberg. Và tham nhũng công khai vẫn là một mối lo cho doanh nghiệp.

Các công ty Đài Loan cho biết họ cần thêm 20% đến 30% công nhân để đáp ứng mục tiêu sản xuất, theo biên bản cuộc họp ngày 21/8 giữa các công ty này với các quan chức Bình Dương được đăng tải trên trang web của chính phủ. Cuộc chiến giành giật tài năng có nghĩa là chi phí thuê lao động cao hơn, với mức lương cho các ứng cử viên lưu loát tiếng Phổ thông ở Bình Dương đã tăng khoảng 60% mỗi năm.

Nhìn rộng hơn, mức lương tối thiểu của Việt Nam ở mức 180 đô la một tháng trong năm 2018, rẻ hơn nhiều so với ở Thái Lan (274) và cạnh tranh được với Campuchia (170), theo Suan Teck Kin và Manop Udomkerdmongkol, các phân tích gia của Ngân hàng United Overseas Bank nói với Bloomberg. Mức lương tối thiểu của Campuchia đã tăng lên 182 đô la Mỹ vào đầu năm 2019, và có khả năng tăng thêm ngay tháng sau.

Việt Nam không thể ‘tiến gần đến mức độ của Trung Quốc đại lục về số lượng công nhân, lượng người tiêu dùng và cơ sở hạ tầng then chốt,” ông Sean Sean King, phó chủ tịch cấp cao của hãng Park Strategies LLC, nói với Bloomberg. “Hơn thế nữa, tỷ lệ năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 25% -30% so với Trung Quốc. Nói tóm lại, chỉ có một Trung Quốc đại lục mà thôi.”

Việt Nam có muốn thế chỗ Trung Quốc?

Trong bài phân tích có tựa đề ‘Tại sao Việt Nam không phải là Trung Quốc mới?’, hãng tư vấn tài chính Palisades Hudson của Mỹ cho rằng: “Cho dù cuộc chiến thương mại kéo dài bao lâu, Việt Nam không có khả năng là Trung Quốc tiếp theo, ít nhất không bao giờ đạt được quy mô như Trung Quốc.”

Một nguyên nhân quan trọng mà hãng này đưa ra là: “Liệu Việt Nam thậm chí có muốn trở thành phân xưởng tiếp theo của thế giới hay không?”

Các nhà lãnh đạo của Việt Nam nhận thức được rằng không có gì đảm bảo hàng xuất khẩu của họ không phải đối mặt với thuế quan của Mỹ trong tương lai. Tổng thống Donald Trump đã từng úp mở quốc gia này có thể trở thành mục tiêu khi gọi Việt Nam ‘gần như là kẻ lạm dụng tồi tệ nhất’. “Đầu tư mạnh vào sản xuất cũng có thể gây tác dụng ngược nếu Trung Quốc và Mỹ đạt được thỏa thuận và chiến tranh thương mại kết thúc,” bài phân tích viết.

Cũng theo hãng tư vấn tài chính này, Việt Nam hiểu lợi ích của lực lượng lao động đa dạng. Nông nghiệp từ lâu đã là trọng tâm để giúp kinh tế Việt Nam tự túc, và điều đó khó lòng thay đổi. Sản xuất toàn cầu gia tăng không phải là cách duy nhất, hoặc là cách tốt nhất để một quốc gia nhỏ tạo dựng sự thịnh vượng cho mình.

Ngoài ra còn có câu hỏi liệu có quốc gia nào cần hoàn toàn thay thế vị trí của Trung Quốc hay không? Cho đến nay, tương đối ít công ty quốc tế đang rời khỏi Trung Quốc hoàn toàn. Tờ Wall Street Journal đưa tin rằng nhiều công ty đang theo đuổi chiến lược Trung Quốc + 1, tức là họ chỉ di dời một phần trong dây chuyền sản xuất của mình và tiếp tục sản xuất hàng hóa không xuất khẩu sang Mỹ ở Trung Quốc. Việt Nam có thể sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng này, nhưng làm như vậy không có nghĩa là cuối cùng họ nối gót theo dấu chân khổng lồ của Trung Quốc, hãng tư vấn tài chính Palisades Hudson của Mỹ nhận định.

VOA Express

XS
SM
MD
LG