Đường dẫn truy cập

Việt Nam: Một năm nhìn lại - Kinh tế


Việt Nam: Một năm nhìn lại - Kinh tế
Việt Nam: Một năm nhìn lại - Kinh tế

Năm 2009 có thể coi là một năm có nhiều biến động và thách thức đối với Việt Nam. Nhân dịp đầu năm dương lịch, Blog Góc nhìn Kinh tế muốn cùng quý vị và các bạn điểm lại các sự kiện chính, các thành công cũng như thất bại của Việt Nam trong năm vừa qua.

Kỳ 1- Kinh tế VN trong năm 2009

Việt Nam bước vào năm 2009 trong khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang trên đà tăng tốc. Là một nước tăng trưởng dựa nhiều vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, VN chịu ảnh hưởng lớn từ doanh số xuất khẩu giảm sút và đầu tư nước ngoài thu hẹp. Trong 11 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu của VN giảm 11.4% so với cùng kỳ năm trước. Đầu tư nước ngoài trong 10 tháng đầu năm chỉ xấp xỉ 25% so với cùng kỳ năm trước. Đây là những thử thách to lớn đối với nền kinh tế và với chính phủ - với tư cách là người lèo lái con thuyền này.

Lèo lái tốt trong khủng hoảng: Trong bối cảnh như vậy, tăng trưởng kinh tế ước tính của năm 2009 vẫn lên tới 5.2% (sau khi đã khấu trừ lạm phát). Việt Nam là nước duy nhất trong khối ASEAN luôn tăng trưởng trong tất cả 4 quý của năm 2009. Thành tích tăng trưởng này được Ngân hàng Thế giới tán dương với nhận định “kinh tế Việt Nam chèo chống tương đối tốt qua cuộc khủng hoảng,” còn IMF thì tuyên bố Việt Nam chắc sẽ làm tốt hơn các nước láng giềng trong giai đoạn hồi phục.”

Duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối tốt trong điều kiện thế giới chìm đắm trong cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy thoái rõ ràng là thành tích ấn tượng nhất trong lĩnh vực quản lý kinh tế của chính phủ trong năm 2009.

<!-- IMAGE -->

Hình 1: Chỉ số VN-Index từ cuối 2008 tới nay
Nguồn: Bloomberg


Thị trường chứng khoán VN (TTCK) hồi phục: TTCK bắt đầu năm 2009 với VN-Index nằm ở mức 315 điểm, sau đó tụt xuống thấp nhất ở mức 235 điểm vào ngày 24 tháng 2 (giảm 25.4%). Từ đó tới nay, TTCK đã hồi phục mạnh mẽ, VN-Index đạt trần vào ngày 22 tháng 10 với mức 624 điểm, tức là tăng khoảng 100% so với hồi đầu năm và 165% so với thời điểm chỉ số này chạm đáy. Tuy nhiên, VN-Index đã liên tục giảm trở lại từ cuối tháng 10 và hiện nay chỉ còn ở mức 440 điểm (số liệu trong ngày 16 tháng 12). Đà giảm điểm này có lẽ còn kéo dài nữa do vấn đề thanh khoản (liquidity) trong hệ thống ngân hàng ở VN.

Thâm hụt mậu dịch và sức ép phá giá tiền tệ: Ngược lại với các điểm sáng kể trên, kinh tế Việt Nam vẫn còn đang gặp phải vô số khó khăn trong ngắn hạn. Thâm hụt mậu dịch quốc tế vẫn liên tục tăng từ hàng chục năm nay tạo nên sức ép thường trực lên giá trị của đồng VND. VN đã phải tuyên bố phá giá 5.4% giá trị đồng VND vào hồi cuối tháng 11 vừa rồi mặc dù chỉ vài ngày trước đó các chính trị gia hàng đầu của đất nước vẫn khẳng định như đinh đóng cột là không có chuyện phá giá.

Đầu tư nước ngoài ít thực chất: Do sức ép phải duy trì được thành tích kêu gọi vốn nước ngoài, Việt Nam đã phải chấp nhận cho FDI đi mạnh vào các khu vực “bong bóng” như bất động sản và du lịch thay vì vào các khu vực công nghệ, kỹ thuật, hạ tầng, hay giáo dục là các khu vực có tác dụng nâng cao năng suất của nền kinh tế về dài hạn. Tỉ lệ FDI đầu tư vào bất động sản trong năm 2008 là 36.8% và trong 10 tháng đầu năm 2009 là 30% ($5.67 tỉ trong tổng số khoảng $19 tỉ). Nếu tính cả số FDI đầu tư vào dịch vụ du lịch thì vốn FDI vào bất động sản và du lịch chiếm tới 76% trong tổng số vốn FDI đầu tư vào VN trong 10 tháng đầu năm 2009.

Khả năng trả nợ của quốc gia ngày càng bị đánh giá thấp: Xếp hạng tín dụng quốc gia đang ngày càng kém đi. Hiện nay các khoản nợ quốc gia của Việt Nam được Moody xếp hạng Ba3 và Standard & Poor’s xếp hạng BB. Hồi giữa năm 2008, Standard & Poor’s đã hạ thấp mức xếp hạng chỉ số tín dụng quốc gia của Việt Nam từ “ổn định” (stable) xuống “tiêu cực” (negative). Một báo cáo gần đây của Nomura còn khuyến cáo rằng Việt Nam đang đứng trước khả năng tiếp tục bị đánh tụt hạng tín dụng. Vì bị xếp hạng tín dụng thấp, khả năng huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài ngày càng khó khăn.

Cuộc đánh đổi giữa kiềm chế lạm phát và tăng trưởng tín dụng: Việt Nam hứng chịu sức ép lạm phát trong suốt cả năm 2009 do tăng trưởng tín dụng nhanh và giá nguyên vật liệu thô tăng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tìm cách kiềm chế đà tăng này bằng cách yêu cầu các ngân hàng duy trì mức tăng tín dụng cả năm không quá 30%. Tuy nhiên, chỉ trong 11 tháng từ đầu năm, tăng trưởng tín dụng đã lên tới 36%. Vì thế, mức lạm phát cả năm hiện nay được dự tính sẽ vào khoảng 6.8%. Ngân hàng phát triển Châu Á hồi cuối tháng 9 vừa qua còn dự báo lạm phát của năm 2010 ở Việt Nam có thể lên tới 8.5% nếu chính phủ tiếp tục duy trì gói kích thích tài chính.

Để ngăn chặn khả năng lạm phát quá cao, hồi cuối tháng 11 này, NHNN đã phải tăng lãi suất cơ bản và yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM) hạn chế cho vay vào các mục đích phi sản xuất. Hậu quả là nguồn tín dụng cho chứng khoán và nhà đất bị thu hẹp một cách bất ngờ. Chính vì vậy mà TTCK tiếp tục tụt dốc không phanh, còn thị trường bất động sản thì cũng được VNeconomy mô tả là “bong bóng đang xì hơi.”

Hiệu quả sử dụng vốn quá thấp: Một thước đo thường được sử dụng để xác định hiệu quả sử dụng vốn là Tỉ lệ vốn tăng thêm trên sản lượng (ICOR-Incremental Capital Output Ratio). Ti lệ này cho biết mức độ hiệu quả của việc sử dụng vốn trong sản xuất. ICOR càng cao có nghĩa là Việt Nam càng phải sử dụng nhiều vốn hơn chỉ để sản xuất ra một sản lượng như trước.

Nghiên cứu của Deutsche Bank cuối năm 2007 đã kết luận “không may là hiệu quả của vốn đầu tư của Việt Nam đã ngày càng kém đi trong nhiều năm trở lại đây. ICOR của Việt Nam [năm 2006] là 4.2, cao hơn nhiều so với Trung Quốc khi đó là 3.7 hay Ấn Độ là 3.3.” Theo một nghiên cứu được Intellasia trích đăng lại thì ICOR trong năm 2007 là 4.76.

Có vẻ như chỉ số này của năm 2009 còn kém hơn nữa. Khi được đề nghị dự báo về chỉ số cho năm 2009, ông Bùi Bá Cường của Tổng cục Thống kê đã trả lời: “Đầu tư của nhà nước tăng bất thường lên hơn gấp rưỡi - tính theo giá thực tế, mà tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 5,2% thì rõ ràng là ảnh hưởng đến ICOR rồi.”

Hiệu quả sử dụng vốn thấp đồng nghĩa với giá thành cao và khả năng cạnh tranh của hàng hóa ở Việt Nam sẽ phải kém đi tương đối. Điều này hoàn toàn bất lợi cho một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu. Các lãnh đạo của Việt Nam hiểu rõ vấn đề này, ngay đến như Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cũng bình luận: “ICOR tăng cao thế là rất đáng lo ngại nhưng cần có đánh giá thêm của các nhà khoa học.”

Nền kinh tế “chạy” không nhanh nhưng luôn “quá nóng”: Điểm đau đầu nhất mà chính phủ của Thủ tướng Dũng đang gặp phải có lẽ là kinh tế Việt Nam đang bị coi là ở trong tình trạng “quá nóng” mặc cho tốc độ tăng trưởng không thực sự cao nếu so sánh với tốc độ phát triển kinh tế của các nước Đông Á hay Trung Quốc một vài thập niên trước. Mấu chốt của vấn đề này có lẽ ở chỗ cơ cấu kinh tế của Việt Nam đang bị mất cân đối nghiêm trọng và cần phải được điều chỉnh về cơ bản.

Hiện nay các chủ nợ như ADB đang kêu gọi Việt Nam nên tăng trưởng chậm lại và tập trung vào giải quyết các vấn đề đang tồn đọng, tái cấu trúc cơ cấu kinh tế nhằm duy trì được khả năng tăng trưởng bền vững trong dài hạn.

Nguồn: Deutsche Bank Research

Tin Vắn Thế Giới

XS
SM
MD
LG