Khu vực kinh tế tư nhân (1)

  • Nguyễn Mạnh Hùng

Khu vực kinh tế tư nhân (1)

Loạt 3 bài về khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) chứng minh tính năng động, sự hiệu quả, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước và cán cân thương mại của những doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thường thuộc qui mô vừa và nhỏ, không được hưởng những đặc quyền đặc lợi về thuế khóa, tài trợ, vay vốn của những ngân hàng nhà nước, và hẳn phải chấp nhận phương thức lót tay trong nền kinh tế mà văn hóa phong bì chi phối. Gồm những doanh nghiệp tư nhân (DNTN) ở ngoài khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế này vận hành thế nào, với những thành tựu và bất cập ra sao?

Trong số 350,000 doanh nghiệp, DNTN chiếm 95%, một số lượng không phải nhỏ. Trên cơ sở một nền kinh tế nhà nước chủ đạo và là chủ sở hữu, với chính sách đặt trọng tâm trên những tập đoàn kinh tế (TĐKT), những tổng công ty (TCT), và kinh tế tập thể (chủ yếu với những hợp tác xã trong nông-lâm nghiệp và thủy sản), hẳn khu vực DNTN ắt có nhiều ràng buộc và hạn chế. Nhưng thật lạ, khu vực DNTN lại có những đóng góp rất tích cực vào nền kinh tế Việt Nam. Mặc dầu khá giới hạn về mặt thông tin, tôi cố gắng lược lại những nét đáng ghi nhận về thành quả của những DNTN[i].

1-Về cơ cấu vốn và tài sản cố định:

Trong thời kỳ 2000-2006, cơ cấu vốn của doanh nghiệp theo thành phần kinh tế có thay đổi. Tỷ trọng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã giảm xuống từ khoảng 67% vào năm 2000 xuống còn khoảng 53% năm 2006; tỷ trọng của DNTN và doanh nghiệp FDI tăng từ khoảng 10% và 23% vào năm 2000 lên 28% và 19,7% năm 2006. Tuy nhiên, DNNN vẫn tiếp tục nắm giữ hơn ½ tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Cơ cấu vốn doanh nghiệp theo thành phần kinh tế có thể tóm gọn với biểu đồ dưới đây:

Về cơ cấu giá trị tài sản cố định (TSCĐ), trong thời kỳ 2000-2006, tỷ trọng của DNNN giảm nhẹ sau đó lại tăng lên nhưng hầu như không thay đổi. Tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng mạnh từ 8,3% năm 2000 lên 20,7% năm 2003 và không thay đổi đáng kể cho đến 2006; và tỷ trọng của doanh nghiệp FDI giảm từ 35,9% xuống còn 23,3% trong cùng thời kỳ. Biểu đồ dưới đây cho phép thấy rõ rằng những DNNN áp đảo, sau là những DNFDI, và cuối cùng mới tới những DNTN về số TSCĐ. Tỷ trọng TSCĐ của khu vực DNTN có tăng so với năm 2003, nhưng khựng lại và có khuynh hướng giảm trong ba năm 2004, 2005, 2006. Hiển nhiên, khu vực DNNN sử dụng một nguồn lực kinh tế (vốn và tài sản cố định) tương đối lớn, ít ra là trên 50%, của toàn bộ nguồn lực trong nền kinh tế Việt Nam.

2 Về đóng góp vào GDP và giá trị công nghệ:

Bảng 1 cho thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài sản cố định) mà nó sử dụng. Khu vực tư nhân nói chung (trong nước và FDI), mặc dầu sử dụng chưa đến ½ nguồn lực tạo ra gần 2/3 của GDP. Điều này cho phép nhận địng rằng hiệu quả kinh tế tương đối thấp của những DNNN.

Lưu ý rằng những DNTN, mặc dầu với nguồn lực chỉ khoảng 20%, đóng góp gần được 50% vào GDP. Cũng nên lưu ý, theo chuyên gia Nguyễn Quang A (đã dẫn), rằng đóng góp của “kinh tế nhà nước” cho GDP bao gồm các lĩnh vực: quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (đóng góp 3,28% năm 1998 và 2,77% năm 2008); giáo dục đào tạo (3,66% năm 1998 và 2,61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn hoá thể thao, đảng và đoàn thể (2,11% năm 1998 và 1,8% năm 2008) [tổng cộng là 9,05% năm 1998 và 7,18% năm 2008]. Nếu trừ phần đóng góp này khỏi thành tích của khu vực nhà nước, chúng ta có một ước lượng cho sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nước vào GDP trong khoảng từ 27% đến 31% về mặt giá trị công nghệ.

Về giá trị đóng góp trong công nghiệp, bảng 2 cho thấy tỷ trọng của DNNN giảm dần từ 34,2% năm 2000 xuống 20% năm 2007, ngược lại với khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đặc biệt, tỷ trọng của khu vực tư nhân tăng từ 24,5% lên 35,4% trong cùng thời kỳ, chứng tỏ sự năng động và hiệu quả của những DNTN.

Chúng ta đều biết T.P HCM có những đóng góp nổi trội vào ngân sách, cán cân mậu dịch, và là địa bàn kinh tế năng động nhất trong nước. Trong dự thảo báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010 – 2015) [ii], vai trò của kinh tế tư nhân được đánh giá cao không chỉ về tốc độ phát triển, sự đa dạng mà còn là những đóng góp tích cực vào phát triển công nghệ, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngân sách cho thành phố.

Theo số liệu của cục Thống kê thành phố, tỷ trọng của kinh tế tư nhân trong GDP của TP.HCM liên tục tăng từ 11,5% năm 2000 lên 38% năm 2008. Năm 2009, khu vực kinh tế ngoài nhà nước tiếp tục giữ tỷ trọng cao trong GDP (49,3%) so với khu vực nhà nước (27,4%) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (23,3%). Trong khi nhiều DNNN ì ạch chuyển đổi công nghệ thì sự chuyển dịch của kinh tế tư nhân cứ đều đặn tăng dần tỷ trọng các ngành có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học-công nghệ cao. Sự năng động, thích nghi và đáp ứng nhanh nhậy của khu vực kinh tế tư nhân này trước yêu cầu phát triển của thành phố là không phủ nhận được. Dĩ nhiên, điều chúng ta vừa đề cập có khả năng đúng cho nền kinh tế cả nước.

[i] Số liệu rút từ bài “Nhìn lại các tập đoàn kinh tế nhà nước” của TS Nguyễn Quang A, trong đó ông dùng báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương (CICEM), và Trung tâm Thông tin và Dự báo, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, mới phổ biến gần đây.

[ii] Đóng góp lớn của kinh tế tư nhân, SGTT.VN, 7-10-2010

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.