Giao tiếp không lời

Giao tiếp không lời

Liên quan đến việc giảng dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai, trong bài trước, tôi đã trình bày về mức độ hoạt ngôn. Bài này xin trình bày khía cạnh thứ hai trong văn hóa giao tiếp là cách truyền thông phi từ vựng, hoặc, nói một cách dễ hiểu hơn, giao tiếp không lời (nonverbal communication):

Xin lưu ý: Truyền thông giữa người và người có thể được chia thành hai hình thức chính: có lời (verbal) và không có lời (nonverbal). Truyền thông không có lời bao gồm hai hình thức chính: bàng-ngôn ngữ (paralanguage) bao gồm giọng điệu, độ nhấn hay ngay cả những quãng im lặng trong cuộc đối thoại; và ngoại-ngôn ngữ (extralanguage) bao gồm ba yếu tố chính: môi trường (environmental language) như khung cảnh (setting), khoảng cách (distance/proxemics), phương tiện (mặt đối mặt hay qua điện thoại, v.v...); ngôn ngữ vật thể như quần áo, trang điểm, v.v... và cuối cùng, quan trọng nhất, ngôn ngữ thân thể (body language) bao gồm các yếu tố chính như: tiếp xúc bằng mắt, diễn tả trên khuôn mặt, cử chỉ, điệu bộ, v.v...

Xin lưu ý là ở đâu, trong xã hội và văn hóa nào, người ta cũng sử dụng ngôn ngữ thân thể. Chức năng chính của ngôn ngữ thân thể là:

Bổ sung vào ngôn ngữ bằng lời.
Tăng cường sức thuyết phục hay hiệu quả của lời nói
Bộc lộ cảm xúc
Dễ tạo nên sự giao cảm
Có tính chất nghi lễ (bắt tay, cúi đầu, v.v…)

Trong khi ngôn ngữ thân thể là điều phổ biến trong mọi nền văn hóa, việc sử dụng ngôn ngữ thân thể của người Việt Nam có ít nhất hai điểm khác biệt so với nhiều văn hóa khác:

Thứ nhất, trong khi người Tây phương, đặc biệt là nam giới, thường dùng tay để biểu lộ tình cảm hay ý nghĩa của mình (bắt tay, vung tay, chỉ tay, nắm tay… để làm thân, nhấn mạnh, sỉ nhục, đe doạ, etc.), và nữ giới thường dùng các biểu hiện trên khuôn mặt (nhăn mặt, nhíu mày, chu miệng, thun mũi, trề môi, etc), người Việt thì thích dùng ánh mắt (nhưng không phải là eye contact, chủ yếu là liếc) và nụ cười. Nếu dùng tay, người Việt thường sờ hay xoa.

Nói đến cái liếc mắt, không thể không nhớ đến nhà văn Võ Phiến. Năm 1977, sau gần hai năm định cư tại Mỹ, quan sát đời sống và cách thức sinh hoạt của người Mỹ, Võ Phiến phát hiện ra một số sự khác biệt khá thú vị trong tâm tính của người Mỹ và người Việt. Một trong những phát hiện ấy là, theo ông, cách biểu lộ tình cảm của người Mỹ khác hẳn người Việt Nam. Trai gái Mỹ gặp nhau, hoặc tán tỉnh nhau ào ào hoặc cứ dửng dừng dưng, như không hề chú ý đến nhau. Rất hiếm thấy cái cảnh họ trố mắt ngắm nghía, họ trầm trồ về nhau. Còn người Việt Nam thì khác. Võ Phiến hồi tưởng:

“Bạn hãy nhớ lại những buổi chiều chúng ta ngồi ở Kim Sơn, ở quán Cái Chùa, ở những bàn nhậu bên lề đường Lê Lợi, vừa nhâm nhi vừa... rửa mắt. Chúng ta quấy nhiễu, nhảm nhiều chứ. Và những khi hoặc bát phố Lê Lợi hoặc có dịp lượn vào chợ, chen vô rạp hát, vào những nơi có lắm bóng hồng: bấy giờ ngay đến những đấng trượng phu tuổi tác, mấy ai tránh khỏi mắt la mày lém, thì thầm khúc khích với nhau?

So với những hoạt động nghịch ngợm ấy của chúng ta, người Mỹ xem có vẻ tỉnh bơ bên cạnh đàn bà con gái. Như không buồn để ý đến. Cho đến khi, thoắt cái, thuyền quyên bị đè ra ứ hự. Và báo chí tha hồ loan báo, và xã hội lo ngại, và thống kê tha hồ ghi nhận v.v...” (1)

Như vậy, có thể nói, trong giao tiếp, ít nhất là giao tiếp giữa những người khác phái, ở Việt Nam, con mắt chiếm một vị trí rất đặc biệt. Điều đó có thể dễ dàng được chứng thực trong thơ văn, từ Truyện Kiều của Nguyễn Du (Thiếp danh đưa tới lầu hồng / Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa) đến bài “Tình già” của Phan Khôi (Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi), thơ Huy Cận (Ðứng ngẩn trông vời áo tiểu thư) và thơ Nguyên Sa (Chân díu bước và mắt nhìn vương vướng), v.v...

Đó là trong thơ văn. Trong ngôn ngữ Việt Nam, mắt cũng rất nổi bật. Nổi bật ở số lượng thành ngữ: mắt thấy tai nghe, mắt nhắm mắt mở, mắt trước mắt sau, mắt la mày lét, mắt để trước trán, mắt ba vành sơn son (chỉ những người mắt toét), mắt thứ hai, tai thứ bảy (chỉ nếp sinh hoạt ở công sở tại Việt Nam hiện nay). Nổi bật ở số lượng từ ghép trong đó có từ tố “mắt”: ra mắt, đẹp mắt, nóng mắt, sướng mắt, bắt mắt, ngon mắt (nhớ hai câu thơ trong Cung oán ngâm khúc: Ðoá lê ngon mắt cửu trùng / Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu). Trong phần lớn các từ ghép vừa kể, từ tố “mắt” đều có thể được thay thế bằng từ tố “mặt”, tuy nhiên, ý nghĩa của chúng sẽ khác hẳn nhau, chủ yếu là ở chỗ: trong khi “mắt” nghiêng về khía cạnh thẩm mỹ (đẹp mắt/bắt mắt/sướng mắt...); “mặt” lại thiên về khía cạnh danh dự (đẹp mặt/nóng mặt). Nổi bật nữa vì số lượng các động từ liên quan đến hoạt động của mắt khá nhiều: nhìn, ngó, ngắm, trông, thấy, rình, xem, nom, dòm, nhòm, lườm, gườm, trợn, háy, nguýt, liếc ngang, liếc xéo, liếc dọc. Ngoài ra, còn một số từ ngữ khác cũng chỉ động tác của con mắt như đưa mắt, ghé mắt, liếc mắt. Những chữ ấy đều chỉ động tác của con mắt nhưng ý nghĩa không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ, nom là trông coi một cách cẩn thận, như nom nhà, nom con; còn dòm thì lại là cái nhìn một cách lén lút, là nhìn qua những khe hở., v.v..

Tương tự như đôi mắt, nụ cười của người Việt cũng vô cùng đa dạng và rất thường bị diễn dịch sai. Ngay cả người Việt Nam cũng sai. Chẳng hạn, học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), trong bài “Gì cũng cười” đăng trên Đông Dương tạp chí số 6 năm 1913, viết:

“An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang.”

Lời phê phán ấy được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. Theo tôi, ở đây, Nguyễn Văn Vĩnh đã “đọc” sai nụ cười và tiếng cười của người Việt Nam. Cái ông gọi là “hì một tiếng” ấy, thật ra, là một thứ ngôn ngữ của người Việt Nam. Cũng giống mọi ngôn ngữ khác, những tiếng “hì” ấy cũng có ý nghĩa nhất định. Cung bậc cũng “hì” thay đổi, ý nghĩa cũng thay đổi theo. Bởi vậy, người Việt Nam có nhiều kiểu “hì” khác nhau: Cười ba lơn, cười bả lả, cười ba ngoe (cười nịnh), cười bông phèng, cười buồn, cười cầu phong, cười cầu tài, cười chớt nhả, cười chua chát, cười cợt, cười dã lã, cười dê, cười duyên, cười đế, cười đểu, cười Đổng Trác, cười động cỡn, cười đú đởn, cười đón, cười đưa, cười gằn, cười góp, cười gượng, cười hợm (hĩnh), cười huề, cười khà, cười khảy, cười khê, cười khinh khỉnh, cười lẳng, cười lấy lòng, cười lén, cười lỏn lẻn, cười mát, cười mỉa, cười mơn, cười mũi, cười ngả ngớn, cười ngạo, cười ngạo nghễ, cười ngựa, cười nhả, cười nhả nhớt, cười nham nhở, cười nhăn nhở, cười nhạo, cười nhạt, cười nịnh, cười ruồi, cười thái sư, cười thâm, cười thầm, cười theo, cười tình, cười trâu, cười trây, cười trừ, cười xã giao, cười xí xóa, v.v...

Nhiều đến độ nhà văn Nguyễn Tuân nghĩ “e phải làm từ vựng từ điển Việt Nam đến nơi rồi cho tiếng cười giàu có của chúng ta”. Rồi, tiếp theo, ông trầm trồ: “Tổ tiên ta thiệt là những nghệ sĩ đã tạo hình cho tiếng cười Việt Nam, tạo cho tiếng cười bao nhiêu là bóng dáng, và có cả một cái gì như là biên chế đầy đủ thang bậc về tiếng cười.” (2)

Khi tiếng cười và nụ cười được sử dụng như một ngôn ngữ, nhiệm vụ của người đối thoại là phải học cách “diễn dịch” chúng. Có thể nói: không thể giao tiếp với người Việt Nam một cách trọn vẹn nếu không “đọc” được ý nghĩa của tiếng cười và nụ cười mà họ sử dụng.

Sự khác biệt thứ hai là, trong khi ở nhiều văn hóa khác, người ta vừa sử dụng loại ngôn ngữ bằng lời vừa sử dụng loại ngôn ngữ thân thể, ví dụ, vừa gật đầu cười vừa nói “hello”, người Việt Nam, ngược lại, trong rất nhiều trường hợp, người ta chỉ sử dụng ngôn ngữ thân thể mà không kèm theo loại ngôn ngữ bằng lời. Ví dụ, gặp nhau, khi đã gật đầu chào, người ta cảm thấy không cần phải nói thêm câu “chào anh/chị” nữa. Sự im lặng đi kèm theo cái gật đầu và nụ cười ấy phải được diễn dịch như một lựa chọn có ý nghĩa giao tiếp chứ không phải là sự trịch thượng hay thiếu lịch sự.

***

Chú thích:

In lại trong tập Tạp Luận của Võ Phiến, nxb Văn Nghệ, California, 1987, tr. 306.

  1. Tuyển tập Nguyễn Tuân 2, Nguyễn Đăng Mạnh biên tập, nxb Văn Học, HN, 1982, tr. 393-4.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.