Đường dẫn truy cập

Tài liệu: Ủy ban Nobel biết rõ Hiệp định Paris 1973 của Kissinger khó mang lại hòa bình


Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, đại diện đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Hoa Kỳ, Tiến sĩ Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký tắt. (Người đứng giữa, phía sau là Thư ký đoàn VNDHCH Lưu Văn Lợi)
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, đại diện đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Hoa Kỳ, Tiến sĩ Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký tắt. (Người đứng giữa, phía sau là Thư ký đoàn VNDHCH Lưu Văn Lợi)

Giải Nobel Hòa bình năm 1973 được trao cho nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ Henry Kissinger và Lê Đức Thọ của Bắc Việt, một trong những phần thưởng gây tranh cãi nhất trong lịch sử của Nobel Hòa bình, được trao với sự hiểu biết đầy đủ rằng cuộc chiến tranh Việt Nam lúc đó khó có thể kết thúc sớm, theo các tài liệu mới công bố.

Các đề cử cho Giải thưởng Hòa bình vẫn được giữ bí mật suốt 50 năm.

Hôm 1 tháng 1, các tài liệu liên quan tới giải thưởng trao cho ông Kissinger và trưởng đoàn đàm phán của Hà Nội, Lê Đức Thọ, được trưng ra theo yêu cầu.

Quyết định ấy đã gây sốc cho nhiều người vào thời điểm đó vì ông Kissinger, lúc đó là cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ và là ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Richard Nixon, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối của cuộc chiến Việt Nam 1955-1975.

Ông Stein Toennesson, giáo sư tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo, người xem xét các tài liệu vừa được tiết lộ, nói với Reuters: “Tôi giờ đây thậm chí còn ngạc nhiên hơn lúc đó rằng ủy ban có thể đưa ra một quyết định tồi tệ như vậy.”

Ông Kissinger và ông Thọ đã đạt được Hiệp định Hòa bình Paris vào tháng 1 năm 1973, theo đó Washington hoàn thành việc rút quân khỏi miền Nam Việt Nam sau khi đã chấm dứt phần lớn các cuộc tấn công và tránh chiến đấu chống lại Cộng sản miền Bắc trước tình hình tinh thần quân đội ngày càng sa sút và các cuộc biểu tình phản chiến lớn ở Mỹ.

Nhưng lệnh ngừng bắn được quy định trong hiệp định đã sớm bị cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam phớt lờ, miền Nam từ chối ký thỏa thuận và tuyên bố bị phản bội vì lực lượng của Hà Nội không bị buộc phải rút khỏi miền Nam.

Chiến tranh tiếp diễn ác liệt, lực lượng của miền Bắc nhanh chóng tiến vào miền Nam trong khi miền Nam lúc đó phải chiến đấu không có sự hỗ trợ quan trọng của Hoa Kỳ và bị suy yếu bởi tình trạng hỗn loạn và tham nhũng cấp cao.

Giao tranh chỉ kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau khi các lực lượng Bắc Việt chiếm được thủ đô Sài Gòn của miền Nam, gây ra một cuộc sơ tán hỗn loạn và bẽ bàng của những người Mỹ còn lại và các đồng minh địa phương bằng trực thăng từ sân thượng Tòa đại sứ Hoa Kỳ.

Ông Lê Đức Thọ từ chối Giải thưởng Hòa bình với lý do hòa bình chưa được thiết lập. Hai trong số năm thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy - tất cả nay không còn nữa - đã từ chức để phản đối. Ông Kissinger, dù nhận giải thưởng nhưng không đến Na Uy để dự buổi lễ và sau đó tìm cách trả lại giải thưởng nhưng vô vọng.

Ông Thọ, qua đời ở tuổi 78 vào năm 1990, là một nhà ngoại giao và là ủy viên Bộ Chính trị cầm quyền của Bắc Việt. Ông giám sát cuộc nổi dậy của Việt Cộng ở miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn từ cuối những năm 1950, và sau đó là cuộc tấn công quyết định của miền Bắc năm 1974-1975 mang lại thống nhất dưới sự cai trị của Hà Nội.

Ông Kissinger, nay 99 tuổi, vẫn là một nhà bình luận nổi tiếng về chính sách đối ngoại và giải quyết xung đột, bao gồm gần đây nhất là cuộc chiến Ukraine, đã không hồi đáp các yêu cầu bình luận về việc công bố hồ sơ Nobel Hòa bình năm 1973.

Biết rằng trao giải cho họ có thể không xứng đáng

Các tài liệu mà Reuters xem qua cho thấy ông Kissinger và ông Thọ được một thành viên của ủy ban Nobel, học giả người Na Uy John Sanness, đề cử vào ngày 29/1/1973 - hai ngày sau khi ký kết hiệp định Paris.

Hàng nghìn người có thể đề cử các ứng viên cho giải thưởng, bao gồm giáo sư, những người từng đoạt giải Nobel và các nguyên thủ quốc gia.

Ông Sanness viết trong bức thư đánh máy bằng tiếng Na Uy lúc đó rằng: “Lý do đề cử là sự lựa chọn đó nhấn mạnh điều tích cực rằng các cuộc đàm phán đã dẫn đến một thỏa thuận sẽ chấm dứt xung đột vũ trang giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ,”

Nhưng ông Sanness, qua đời năm 1984, cũng nói thêm: “Tôi biết rằng chỉ trong thời gian tới người ta mới hiểu rõ (loại) ý nghĩa mà các hiệp định sẽ có trong thực tế.”

Giáo sư Toennesson nói thư đề cử và các báo cáo về ông Kissinger và ông Thọ cho các cuộc thảo luận của ủy ban cho thấy họ “nhận thức đầy đủ” rằng hiệp định Paris “không có khả năng được giữ vững”.

Ông nói: “Giải thưởng được trao cho ông Kissinger vì đã đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam... mà không có bất kỳ giải pháp hòa bình nào cho Nam Việt Nam.” Vẫn theo lời giáo sư Toennesson, ông Thọ được đề cử vì ủy ban cảm thấy “không thể trao nó cho một mình ông Kissinger.”

“Ông ấy (Kissinger) cần một đối tác và sau đó họ bổ sung thêm Lê Đức Thọ, người mà họ ít biết đến. Báo cáo về (ông Thọ) rất yếu,” ông Toennesson nói thêm.

Trong số các tài liệu được công bố có bức điện tín gốc mà ông Thọ gửi từ Hà Nội nói rằng ông “không thể” nhận Giải thưởng Hòa bình.

Ông Thọ viết: “Khi hiệp định Paris về Việt Nam được tôn trọng, không còn tiếng súng và hòa bình thực sự được lập lại ở miền Nam Việt Nam, tôi sẽ xem xét việc nhận giải thưởng này”.

Sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam đầu những năm 1960 được coi là một động thái nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa Cộng sản.

Cuối cùng, hiệp định Paris đã đóng dấu lối thoát của Hoa Kỳ ra khỏi một cuộc chiến mà nhiều người trong nước chỉ trích là một vũng lầy gây chia rẽ và tốn kém vô cùng, nhưng hiệp định ấy không làm im tiếng súng hay mang lại một nền hòa bình theo thương thuyết tại Việt Nam.

Vào ngày 1/5/1975, tức một ngày sau khi Sài Gòn sụp đổ, kết thúc chiến tranh, ông Kissinger tìm cách trả lại giải thưởng, thông qua một bức điện tín từ Hoa Kỳ gửi tới ủy ban Nobel, trong đó ông nói rằng “hòa bình mà chúng tôi tìm kiếm thông qua các cuộc đàm phán đã bị đảo lộn bằng vũ lực.”

Nhưng khi đó ủy ban không chịu lấy lại giải thưởng.

Diễn đàn

VOA Express

XS
SM
MD
LG