Sinh ở Huế. Trước 1975, viết văn, viết báo, đi lính, dạy học. Cộng
tác với các tạp chí văn học Văn, Vấn Đề, Khởi Hành, Bách Khoa, Tân Văn,
Đối Diện.Sau tháng 4/1975, ở tù cho đến năm 1981. Năm 1993, định cư tại
Hoa Kỳ. Hiện cùng gia đình sinh sống tại Worcester, bang Massachusetts,
làm việc cho Sở Giáo Dục Thành Phố. Bắt đầu viết lại và cộng tác với
nhiều tạp chí văn học và website hải ngoại như Văn Học, Văn, Hợp Lưu,
Việt, Thế Kỷ 21, Phố Văn, Talawas, Da Màu. Các tác phẩm đã xuất bản:
Vết xước đầu đời (tập truyện ngắn); Căn phòng thao thức (tập truyện
ngắn); Viết và Đọc (tiểu luận văn học); Loanh quanh những nẻo đường (ký
và tùy bút); Dặm trường (truyện dài); Tác giả tác phẩm và sự kiện (tiểu
luận văn học); Từ ảo đến thực (tạp bút)
(đọc là một lặng lẽ tỏa đầy hơi)
Kỳ 1
Chữ
chỉ là một ký hiệu, giống như bao ký hiệu khác bên ngoài. Mũi tên thì
chỉ đường đi, đèn đỏ thì xe ngừng lại, trái tim thì chỉ tình yêu…Mỗi
một chữ tự nó không có nghĩa gì hết. Nó ám chỉ một cái gì khác hơn
chính nó. Nhưng khi chúng kết hợp với nhau bằng một cách nào đó, thì
tính cách ký hiệu của chúng dường như thay đổi. Hành vi đọc, không còn
là đọc những ký hiệu, mà là đắm mình vào trong một thế giới khác cái
thế giới mà ta đang hiện diện. Nhìn một bức tranh, ta còn thấy những
chi tiết của nó: màu đỏ, màu xanh, màu đen, đường cong, đường tròn, chỗ
đậm, chỗ lạt. Đọc – thì cũng là nhìn -, nhưng dường như ta chẳng hề
thấy chữ “a”, chữ “b”, chữ “ư”, chữ “ơ”, hay chữ “chàng”, chữ “em”, hay
câu ngắn câu dài, hay chữ đẹp, chữ xấu, mà thấy từng chuỗi chữ kết nối
nhau. Mà dường như ta không hề thấy. Ngược lại, ta nghe, ta cảm, ta
ngửi. Y như những con chữ có thể bốc lên, tỏa ra. Nghe có hơi. Tôi gọi
là hơi văn, hơi thơ. Nói chung là hơi chữ. Với tôi, đọc là một lặng lẽ
tỏa đầy hơi!
Hơi
thơ thường dễ nhận biết. Có lẽ nhờ có vần có điệu. Trong những bài thơ
cách tân, vần điệu không còn đóng vai trò chính, và cấu trúc thơ khác
đi. Cấu trúc khác, hơi thơ cũng khác.
Ở đây, chỉ xin nói chuyện văn.
1.
Hằng
năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những
đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của
buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác
trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa
bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên
giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng
mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường,
lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi
mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên
con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần,
nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay
đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học. (Thanh Tịnh/Tôi đi học)
Đoạn
văn mở đầu của Tôi đi học mà ai hầu như ai cùng thế hệ tôi cũng còn nhớ
này, sở dĩ nó tồn tại lâu dài trong ta, dĩ nhiên, là do nó nhắc nhở một
thứ kinh nghiệm đầu đời đầy xúc cảm. Cũng có thể là do nhịp điệu, có
thể là do các chữ dùng dung dị và cụ thể, có thể là do hình ảnh mà nó
gợi nên. Thì sao cũng được. Nhưng theo tôi, còn do cái hơi văn mềm mại,
vuốt ve rất riêng của nó. Khi đọc, tôi có cảm tưởng như mình nhìn thấy
những sợi khói toát ra từ chữ nhẹ bay mông lung trong một ngày vắng
gió.
Tất
nhiên, không phải hơi văn nào cũng mềm mại, vuốt ve. Hơi văn khác từ
tác giả này đến tác giả khác. Đôi khi cùng một tác giả, mà mỗi bài, mỗi
truyện hay thậm chí mỗi đoạn lại có một hơi khác nhau. Cũng có bài, ta
không thấy có hơi. Trong lúc đó, có một số tác giả, văn của họ tỏa ra
một hơi hướm riêng biệt vì có cách hành văn khác thường, độc sáng. Có
khi, cách viết làm cho ta say mê đến nỗi quên cả cốt truyện và nhân
vật. Hơi văn, hơi chữ có thể không quyết định chuyện hay, dở của một
tác phẩm nhưng nhất định nó đóng góp phần riêng của nó vào đó.
2.
Hôm
thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững thững một mình ra vườn. Ăn
được cơm. Tôi bảo: "Mừng rồi". Vợ tôi không nói năng gì, chiều hôm ấy
thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc. Tôi hỏi: "Chuẩn bị
à?" Vợ tôi bảo: "Không". Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại
đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất
khắm. Tôi đổ sâm. Vợ tôi bảo: “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ". Tôi òa khóc.
Rất lâu tôi mới òa khóc như thế. Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo: "Tùy
anh”. Ông Bổng sang thăm. Ông nói: “Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên
giường như thế này là gay go lắm đấy!” Lại hỏi:”Chị ơi, chị có nhận ra
em không?.” Mẹ tôi bảo: " Có". Lại hỏi: "Thế em là ai?" Mẹ tôi bảo: "Là
người". Ông Bổng khóc òa lên: "Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ
gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn
nạn. Chỉ có chị gọi em là người". Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò,
lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ
ngay trước mắt tôi. (Nguyễn HuyThiệp/Tướng về hưu)
Cách
viết có nét khác lạ. Ngắn, gọn, tưng tửng. Những con chữ nghe khô khô.
Các diễn tả đều tiết giảm đến mức tối đa. Câu kéo trúc trắc y như thiêu
thiếu cái gì. Cụt. Lỏi chỏi. Đã thế, lại “tôi bảo”, “tôi nói”, “mẹ tôi
bảo”, “mẹ tôi nói”. Hết “nói” lại đến “bảo”, hết “bảo” lại đến “nói”,
khiến cho mạch văn cứ như gãy, bể, co cụm lại. Ở một nhà văn khác, tả
cái cảnh mẹ đau ốm sắp chết như thế có thể kéo dài ra ít nhất là một
trang hay hơn.
Không
có “chuyện”, chỉ thấy “sự”, hết trang này đến trang khác. Mà “sự” cũng
bị tướt bỏ hết cả râu ria, cành nhánh. Câu, chữ quánh, nén, tạo ra một
thế giới đơn giản, rất ít lời, lại nhiều việc. Hơi chữ bốc lên hăng
hăng và cay không kém gì mùi ớt (hiểm).
Nguyễn
Huy Thiệp đã tạo ra một cách sắp xếp chữ khác lạ. Bản thân cấu trúc góp
phần tăng thêm độ đậm cho ý nghĩa. Chẳng lạ gì, ông đã thổi một luồng
gió mới vào văn chương Việt Nam trong nước, và cả ngoài nước.
3.
Tay
thày nhỡ sao được. Tay ấy vê ngón tay tôi, vuốt mu bàn chân tôi, không
quên một ly; tay ấy chẳng bao giờ chạm cái nốt ruồi, lần nào cũng quây
gọn nó rồi lại thả nó, như vừa đánh vây vừa nhử; tay ấy nhổ tóc tôi tí
tách, mỗi bụi tóc đủ hai mươi chín chiếc vừa bằng tuổi tôi; tay ấy kéo
tai tôi ròn tan, bảy mươi tám chỗ kêu trên người tôi chẳng lầm chỗ nào;
tay ấy mỗi lần trườn ngang nách tôi đều dừng tuyệt khéo sát chân triền
ngực. Mắt người mù là ở ta. Tay ấy mười con mắt. Bây giờ tay ấy ôm
ngang eo tôi, lùa trên bụng tôi, tỏa xuống ngang hông, chập chờn, thăm
dò. Rồi quả quyết chườm quanh rốn. Rồi xoa, mỗi vòng một rộng, tay này
đuổi tay kia, một quành xuống bụng dưới và một lội qua vùng ngực. Rồi
ngọt ngào miết dọc những dẻ xương sườn. Rồi miết đi miết lại từ cổ
xuống ức, lách giữa hai bầu ngực. Chồng tôi thấy chúng khít e vướng,
nên khẽ nhón hai chỏm, rẽ ra cho rộng chỗ. Rồi tôi chẳng biết tay ai là
tay ai nữa. (Phạm Thị Hoài/Ám thị)
Đề
tài của Phạm Thị Hoài rất mới: một ông chồng học nghề tẩm quất bằng
cách để cho ông thầy mù dùng thân thể vợ mình làm chỗ chỉ dẫn và thực
tập. Nếu Nguyễn Huy Thiệp đơn giản hóa đến cùng các chi tiết, các sự
kiện, thì Phạm Thị Hoài, ngược lại, đi đến cùng các chi tiết. Và cũng
khác với Nguyễn Huy Thiệp tập trung phần lớn vào đối thoại, thì Phạm
Thị Hoài tập trung hoàn toàn vào diễn tả. Truyện chẳng có “biến cố” nào
ngoài tâm cảm của người đàn bà nghe ngóng chuyển động của “tay ấy” trên
thân thể mình. Riêng hai chữ “tay ấy” thôi cũng đã nói lên nhiều điều.
Tác giả săm soi từng chi tiết chuyển động của “tay ấy”. “Tay ấy” thông
minh, rành rọt mọi ngóc ngách trên thân thể nhạy cảm của thân xác phụ
nữ. Nó “vê”, nó “vuốt mu”, nó “quây gọn”, nó “nhổ …tí tách”, nó “trườn
ngang”, nó “lùa trên”, nó “chườn quanh”, nó “lội qua ngực”, nó “miết
dọc”, nó “lách giữa”…Chừng như nó nắm rất vững mọi cảm giác của nhân
vật vợ. Những chi tiết gợi hình được diễn tả bằng những câu văn gọn
gàng, chuẩn. Chữ dùng chọn lọc, đầy dụng công. Tác giả nỗ lực lột tả
những cảm giác hết sức tinh tế và đặc thù của người phụ nữ trong một
tình huống cũng hết sức đặc thù. Ta có cảm giác như những con chữ xoắn
xít, chen chúc, dồn đẩy nhau. Hơi chữ toát lên vẻ trông ngóng tinh
nghịch và …erotic! Trong lúc truyện dường như chẳng erotic chút nào cả.
Chỉ là ám thị!
4.
Khí
hậu trong nhạc tình Từ Công Phụng, theo cảm nhận của tôi, là cái khí
hậu ẩm đục những cơn mưa. Ðầm đìa những lệ mặn, chát đắng những quá
khứ. La đà những cây, trái thất lạc tương lai. Ðồng thời, người nghe
cũng có thể cảm được những tay ôm, vỗ về của biển. Những chân đi chập
chùng của gió. Những rét mướt của rừng. Những bơ vơ của núi. Những ngơ
ngác phố cũ. Những rữa nát thềm xưa. Những cỏ cây. Chim muông. Hình
bóng. Kỷ niệm... Tất cả, dường đã cùng thức dậy, đứng lên, buồn bã,
chông chênh bước vào tâm hồn người thưởng ngoạn. Vì trong rất nhiều
tình khúc của Phụng, hạnh phúc đã tựa như lời nói dối; nếu hiểu, tình
yêu, vốn là điều không thật! (Du Tử Lê, Từ Công Phụng, Hạnh phúc tựa những lời nói dối)
Đó
là trích đoạn một bài viết của Du Tử Lê viết về nhạc Từ Công Phụng. Bài
viết là tiểu luận, nhưng mang hơi hướm của tùy bút và thơ. Du Tử Lê ở
đây không đưa một chi tiết cụ thể nào, mà lan man đi từ hình ảnh ẩn dụ
này đến ẩn dụ khác. Mưa thì “ẩm đục”, lệ thì “mặn” và “đầm đìa”, quá
khứ thì “chát đắng” Ông đổi cách sử dụng chữ: biến hình dung từ thành
danh từ, đảo ngữ, đảo cú. Câu tuy ngắn, nhưng nhịp chữ đều đặn, cân đối
khiến hơi chữ chừng như kéo dài, nghe lướt thướt.
Đoạn sau đây lại càng du-tử-lê hơn:
Trong
lúc chờ T.Q.C. chúng tôi cùng hút thuốc. Tôi nói với X.T. về niềm hạnh
phúc, mỗi ngày được sống, thêm. Thấy cây, cỏ, hớn hở. Thấy nắng, gió,
khoan thai. Thấy thiên nhiên, căng bầu vú, cho vạn vật bú, mớn. Thấy
bằng hữu mất, còn, cũ, mới, vẫn lênh đênh xao xuyến tìm nhau.
Ông cắt câu, tách chữ, tạo thêm nhiều nhịp chỏi bất ngờ. Hơi chữ bỗng nghe lạ lẫm hẳn. Thấm thía hơn, có lẽ. (Còn tiếp)
Ghi chú: Có thể vào xem các truyện trên ở các đường nối sau:
Du Tử Lê, http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=102369&z=193
- Du Tử Lê, http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=103336&z=97
- Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, http://www.viet-studies.info/NNTu/NNTu_CanhDongBatTan.htm
- Đặng Thơ Thơ, Đi tìm bản Thánh Kinh cuối, http://damau.org/archives/1948
Đọc nhiều nhất
1