Ông nằm thẳng người tay đang cầm đọc một quyển sách chi đó trông rất dày lúc tôi bước vào căn phòng ngủ của ông cúi người chào hỏi. Đưa cánh tay trần xương xẩu ra để bắt tay tôi, đến lúc ấy tôi mới biết là ông không đi đứng được dể dàng như những người bình thường khác. Bởi cách đấy khá lâu ông đã bị té gãy xương chậu nhưng vì gia đình không có đủ tiền chữa trị nên ông đành phải để vậy, không vào nhà thương để chỉnh sửa.
Nếu tôi buồn cho đất nước tôi một thì những lúc nghe được những mảnh chuyện như thế này tôi lại buồn mười. Đúng là biết nói sao cho cùng phải không bạn?
Nhưng đối với ông hình như đấy chỉ là một câu chuyện rất bình thường. Ông kể cho tôi biết để hiểu rõ sự việc chứ chẳng có ý gì khác. Không giấu diếm cũng chẳng một tí ngại ngần hay có ý than vãn. Câu chuyện giữa ông và tôi cũng bắt đầu trong tình cảnh tự nhiên, đơn giản đó.
Ông không biết nhiều về tôi nên ít khi mở lời nói trước. Tôi hỏi ông trả lời. Tôi xin ông cho phép tôi quay băng thu lại những lời ông nói, ông bảo cứ tự nhiên. Không có gì cần phải ngại ngùng cả.
Thế là buổi phỏng vấn đầu tiên của tôi với thi sĩ Hoàng Cầm đã được bắt đầu ngay trên chiếc giường mà ông từ sáng đến tối chỉ biết nằm một chổ để đọc sách hoặc cố làm thơ dù ông đã qua cái tuổi ‘thất thập cổ lai hy’ từ lâu lắm rồi. Và cũng như tất cả những lần phỏng vấn trước đó, tôi đã không có những câu hỏi được chuẩn bị viết sẵn ra trên giấy. Tôi luôn muốn những gì tôi làm phải đến tự nhiên, thoải mái và nó được cho là một buổi trò chuyện hơn là một cuộc phỏng vấn. Khi ấy tôi nghĩ những gì chân thật nhất, thành tâm nhất, cái hồn của người được phỏng vấn mới được hé lộ ra cho khán thính giả ở khắp nơi lắng nghe, chắt lọc.
Và đấy cũng là những gì tôi đã học hỏi được từ nơi ông trong đêm đó. Kể cả những gì tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ ‘học’ được. Như việc ông nhỡ thầm yêu người chị hàng xóm lúc ông chỉ mới 12, 13 tuổi đầu để sau này sáng tác ra bài thơ ‘Lá Diêu Bông’ chẳng hạn.
Nhưng ông còn kể cho tôi nhiều chuyện hay lắm. Từ chuyện gia đình, tình yêu trai gái trong đời sống rất lãng mạn một thời của ông. Cho đến việc ông làm thơ, viết kịch và trong hoàn cảnh nào các tác phẩm của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm đã được cho ra đời. Và bị đả kích. Để rồi sau đó bị trù dập và cuối cùng là bị cấm không cho sáng tác, xuất bản cho đến cuối đời.
Biết bao là tài hoa của đất nước đã bị hủy diệt ngay lúc họ sung mãn nhất.
Biết bao cơ hội, những áng văn, lời thơ tuyệt tác đã bị mất đi không cách gì tìm lại được.
Nhờ ông mà tôi đã lần mò đến đúng thôn Vân Hoàn xã Nga Lĩnh tỉnh Thanh Hóa để tìm được nhà thơ Hữu Loan của ‘Màu Tím Hoa Sim’. Cũng nhờ ông mà tôi biết thêm về Nguyễn Hữu Đang, người từng được giao nhiệm vụ quan trọng nhất vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 để tổ chức thành công ngày Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập.
Để rồi sau đó bị đày đi khổ sai và sống trong túng quẫn mãi cho đến lúc nhắm mắt chỉ vì ông bất đồng quan điểm với thành phần lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam về đường lối và cách cư xử đối với những người… bất đồng ý kiến.
Nếu chưa có dịp đọc qua quyển ‘Ba Phút Sự Thật’ của nhà văn Phùng Quán thì bạn nên cố tìm đọc. Vì đọc rồi bạn mới thấy cái nghèo, cái khổ của các văn nghệ sĩ Việt Nam hay những trí thức như ông Nguyễn Hữu Đang suy cho cùng chỉ vì sự ngu xuẩn xen lẫn chút tị hiềm, ganh ghét và bạo tàn của những kẻ cầm quyền không thấu hiểu lòng khao khát của những tâm hồn tự do, luôn tôn trọng đề cao những gì tươi đẹp, nhân bản nhất.
Tôi mải miết ngồi bên giường nói chuyện cùng ông mà không biết là đêm đã quá khuya và mọi người trong nhà cần phải đi ngủ để ngày mai dậy sớm chuẩn bị cho một ngày mới. Gửi lại cho ông một số tiền nho nhỏ mà anh Trúc Hồ đã nhờ tôi tận tay chuyển lại xem như là tiền bản quyền cho lời hát của nhạc phẩm ‘Lá Diêu Bông’ sẽ được chị Thanh Tuyền trình diễn trong quyển DVD sắp tới, tôi bắt tay gửi lời chào tạm biệt ông mà lòng cảm thấy bâng khuâng chẳng biết mình buồn hay vui. Bình thản hay nên thao thức.
Tôi vui vì đã gặp và hầu chuyện được với người mà tôi hằng mến mộ. Nhưng tôi buồn vì đã tự hỏi mình biết thêm được từng ấy kiến thức để làm gì?
Tôi chẳng làm được gì cho những người đã mất.
Và đối với những người còn sống như ông, tôi cũng chẳng làm được gì. Nói chi đến đất nước Việt Nam.
Đêm hôm ấy tôi bước ra khỏi nhà ông và không đi thẳng về khách sạn mà lại ra Hồ Hoàn Kiếm để dạo quanh bờ hồ, cố tìm cho mình đôi chút thời gian để thư giãn, lắng đọng. Tôi thường có thói quen nghĩ ngợi mông lung mỗi khi nghe được một câu chuyện bi thương hoặc thấy và cảm nhận được những trăn trở khôn nguôi của những người luôn hết lòng cho đất nước.
Tôi muốn gọi nhỏ cho Thần Kim Quy hiện lên mặt hồ để hỏi xem những người con Việt Nam cần phải làm gì trong lúc này? Trải qua bao cuộc bể dâu, chắc Thần đã biết rõ những gì đã và đang xảy ra trên đất mảnh đất ngàn năm vạn vật này?
Nhưng đợi mãi tôi chẳng thấy một kim quy hay ông thần nào xuất hiện. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ văng vẳng câu trả lời cuối cùng của ông trước lúc chia tay khi tôi ngỏ lời muốn hỏi:
Nếu có một lời khuyên dành cho các thế hệ mai sau ở trong nước cũng như ở hải ngoại thì lời khuyên của ông sẽ là gì?
Mắt chợt sáng, tay khoát nhẹ như có vẻ không cần phải nghĩ ngợi nhiều, ông bình tĩnh nhẹ nhàng nhưng chắc giọng đáp:
Nếu thấy điều gì đó tốt nhất cho đất nước Việt Nam, cho con người Việt Nam thì cứ làm. Các cháu cứ mạnh dạn mà làm. Có thể việc làm của mình sẽ không được ủng hộ ngay lúc này. Nhưng rồi tương lai đất nước sẽ tươi sáng hơn. Việc làm của các cháu sẽ được chứng nhận. Đó là lời khuyên của tôi.