Các máy điện toán trên thế giới được nối liền
với nhau trong một hệ thống liên lạc rộng lớn gọi là Internet. Trong
câu chuyện 'Khoa học và Đời Sống' hôm nay, Nguyễn Lê xin mang đến quý
thính giả bài thứ hai trong loạt bài nói về thời Đại Thông Tin, với
những chi tiết liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển của mạng
Internet. Bài này dựa trên tường trình của Thông tín viên đài VOA Paul
Thompson.
Trong bài trước, chúng tôi đã trình bày lịch sử phát
triển của các phương cách truyền đạt thông tin trong thời kỳ đầu. Chúng
tôi đã mô tả thiết bị đầu tiên có khả năng chuyển tải thông tin một
cách nhanh chóng từ nơi này đến nơi khác. Và chúng tôi cũng đã đề cập
đến những buổi phát thanh và truyền hình sơ khởi và sự khởi đầu của
hoạt động viễn thông qua vệ tinh.
Trong những năm đầu của thập
niên 1970, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện một dự án mới. Trước
hết Bộ kết hợp các trường đại học lớn có bộ phận nghiên cứu tiên tiến
trên toàn nước Mỹ với nhau.
Các giáo sư tại nhiều trường đại học
Mỹ làm công tác nghiên cứu cho chính phủ Hoa Kỳ. Bộ Quốc phòng muốn nối
liền các trường đại học này để tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo sư
hợp tác với nhau trong hoạt động nghiên cứu. Để thực hiện mục tiêu này,
các quan chức Bộ Quốc phòng quyết định nối liền các trường đại học liên
hệ với nhau bằng máy điện toán.
Các quan chức vừa kể tin rằng
máy điện toán sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà nghiên cứu gửi những
số lượng thông tin lớn từ trung tâm nghiên cứu này đến trung tâm nghiên
cứu khác. Họ tin rằng họ có thể dùng máy điện thoại nối liền các máy
điện toán tại các trường đại học này với nhau. Thực tế đã chứng minh là
họ đúng. Việc gửi thông tin từ trường đại học này đến trường đại học
khác trở nên dễ dàng hơn. Các nhà nghiên cứu của các trường đại học làm
việc với nhau trong cùng một dự án có thể chia sẻ với nhau những số
lượng thông tin lớn một cách nhanh chóng. Họ không còn cần phải chờ đợi
nhiều ngày để bưu điện chuyển tới cho họ một bản sao của những báo cáo
khoa học.
Đây là cách hệ thống này hoạt động: Trước hết, máy
điện toán được nối vào một máy điện thoại bằng một thiết bị gọi là
môđem. Môđem này biến đổi những thông tin của máy điện toán thành những
văn bản điện tử dưới dạng âm thanh. Những điện văn này chạy qua thiết
bị điện thoại đến môđem ở đầu đường dây điện thoại bên kia. Môđem nhận
diện văn này biến đổi các điện văn dưới dạng âm thanh trở về dạng thông
tin mà máy điện toán có thể sử dụng được.
Thiết bị liên lạc
điện tử hiện đại đầu tiên của thế giới, máy điện báo, chỉ gửi đi được
mỗi lần một con chữ mà thôi. Nhưng máy điện toán có thể gửi hàng ngàn
từ trong vòng vài giây.
Sự nối kết giữa các trường đại học nhanh
chóng được mở rộng và bao gồm hầu hết các trung tâm nghiên cứu và các
trường cao đẳng ở Hoa Kỳ. Những đường dây nối kết này trở thành những
mạng lưới đại quy mô. Khi hai hoặc nhiều máy điện toán hơn được nối với
nhau, chúng tạo thành một mạng lưới nhỏ. Chúng có thể được nối liền với
nhau bằng một dây kim loại từ một máy điện toán này tới một máy điện
toán khác, hay bằng một máy điện thoại. Một mạng lưới có thể được mở
rộng ra trên bất cứ quy mô nào.
Thí dụ, chúng ta hãy bắt đầu
với 2 máy điện toán đặt trong cùng một phòng tại một trường đại học,
được nối liền với nhau bằng một dây kim loại. Tại một nơi khác trong
trường đại học này, hai máy điện toán khác cũng được nối với nhau theo
cùng một phương cách. Kế đó, cả bốn máy điện toán được nối với nhau
bằng các môđem và một đường dây điện thoại được dành riêng cho các máy
điện toán này sử dụng. Như thế là ta đã có một mạng cục bộ nhỏ gồm bốn
máy điện toán.
Bây giờ, ví dụ mạng cục bộ này được nối bằng
môđem của nó qua các đường dây điện thoại với một trường đại học khác
cũng có bốn máy điện toán. Như thế chúng ta đã có một mạng gồm tám máy
điện toán. Trường đại học kia có thể ở bất cứ nơi đâu, ngay cả ở cách
xa hàng ngàn kilomét đi nữa. Giờ đây các máy điện toán này có thể gửi
bất cứ loại thông tin nào mà một máy điện toán có thể nhận được, ví dụ
như điện văn, báo cáo, hình ảnh, tranh vẽ, âm thanh. Những thông tin
này được trao đổi một cách tức tốc.
Từ khi chúng được bắt đầu
xây dựng, hệ thống các mạng lưới này đã được gọi bằng nhiều tên khác
nhau. Hiện nay, tên gọi chính thức của nó là Internet. Năm 1981, hệ
thống liên lạc này nối kết 213 máy điện toán. Nhưng chỉ 9 năm sau đó,
số máy điện toán được nối kết đã lên tới hơn 350,000. Ngày nay, theo
các chuyên gia, trên 1 tỷ người trên thế giới được nối kết với mạng
Internet bằng máy điện toán. Và các chuyên gia này nói rằng con số này
sẽ tiếp tục tăng lên.
Hầu như tất cả các trường đại học lớn trên
thế giới là thành viên của mạng Internet. Các trường đại học và cao
đẳng nhỏ hơn và nhiều cơ sở giáo dục công lập hay tư nhân cũng vậy. Các
tạp chí, nhật báo, thư viện, doanh nghiệp, cơ quan chính phủ, và hộ gia
đình cũng tham gia vào mạng luới này,
Các chuyên gia về điện
toán bắt đầu mở rộng hệ thống Internet trong những năm cuối của thập kỷ
1980. Hệ thống được mở rộng này gọi là World Wide Web, có nghĩa là mạng
lưới toàn thế giới, được viết tắt ở đầu các địa chỉ trang web là www.
Sự mở rộng này cho phép những người sử dụng máy điện toán dễ dàng tìm
kiếm thông tin bằng cách dùng những phần mềm gọi là bộ trình duyệt.
Mạng
www hoạt động nhanh đến mức nào trong hệ thống Internet? Sau đây là một
ví dụ. Anh Nam dùng máy điện toán ở Cần Thơ. Anh muốn tìm kiếm thông
tin về các trường đại học ở bang California của Hoa Kỳ. Anh Nam đánh
hai từ 'California' và 'university', tiếng Anh có nghĩa là đại học, vào
một công cụ tìm kiếm, như Google chẳng hạn.
Chỉ trong
vài giây, máy điện toán cung cấp cho anh một danh sách các hệ thống đại
học ở bang California. Trong danh sách này Anh Nam chọn xem những thông
tin do một tổ chức nghiên cứu ở miền bắc California. Máy điện toán của
tổ chức này ở San Francisco cung cấp cho anh thông tin về các trường
đại học và cao đẳng trong khu vực lân cận, cho anh biết địa chỉ, lịch
sử, và quy mô của các truờng này cùng những thông tin hữu ích khác.
Ngồi
ở Cần Thơ, anh Nam xem các thông tin vừa kể trên máy điện toán của anh.
Kế đó, anh in ra giấy một bản sao các thông tin đó. Chỉ trong vài giây,
anh có một danh sách các cơ sở đại học ở San Francisco và vùng phụ cận,
kèm với cả hình ảnh. Tất cả thời gian anh Nam phải bỏ ra để hoàn tất
việc tìm kiếm thông tin này là chưa tới 5 phút.
Ai phải trả tiền
cho hệ thống Internet? Đây là một vấn đề không dễ giải thích. Thật sự
là mỗi mạng lưới, bất kể là lớn hay nhỏ, phải tự đài thọ lấy các phí
tổn. Các mạng luới quyết định số tiền mà các thành viên của mạng phải
trả để đài thọ cho những phí tổn của thời gian nối kết dịch vụ địa
phương. Kế đó, tất cả các mạng luới lớn quyết định mỗi thành viên phải
trả bao nhiêu để tham gia vào một mạng lưới lớn hơn bao gồm một khu vực
lớn của nuớc liên hệ. Đến phiên mình, mạng khu vực này trả tiền cho
mạng quốc gia để nhận được dịch vụ cần thiết.
Mỗi người có máy
điện toán ở nhà phải trả tiền cho một công ty để được nối với mạng
Internet. Các công ty này được gọi là công ty cung cấp dịch vụ Internet.
Công
ty cung cấp dịch vụ Internet thường tính khoảng 20 đôla một tháng cho
dịch vụ nối kết Internet theo tốc độ chậm. Một người sử dụng máy điện
toán được nối kết bằng vô tuyến theo tốc độ cao thường phải trả ít nhất
là 40 đôla một tháng. Dịch vụ nối kết vô tuyến thông thường nối máy
điện toán với Internet bằng một thiết bị công nghệ đặc biệt gọi là
router.
Trước đây Hoa Kỳ vẫn là nước có nhiều người dùng mạng
Internet nhất thế giới. Nhưng hồi tháng Tư năm nay, báo Mỹ USA Today
loan tin rằng hiện nay Trung Quốc là nước có nhiều nguời sử dụng
Internet nhất. Theo ước tính của một nhóm nghiên cứu của Trung Quốc thì
tính tới tháng 2 năm nay, có trên 220 triệu người Trung Quốc dùng
Internet. Con số này tương đương với khoảng 17% dân số nước đó.
Báo
USA Today cũng cho biết là, tính tới cuối năm ngoái, có 216 triệu người
Mỹ dùng Internet, tức là 71% dân số Hoa Kỳ. Trang web có tên là Thống
kê Internet Thế giới ghi nhận có nhiều nước khác có số người sử dụng
Internet lên tới trên 60 phần trăm dân số của họ. Trong số những nước
này có Nhật Bản, Đức, Anh, Australia và Nam Triều Tiên.
Các công
trình nghiên cứu đã cho thấy phần lớn người ta dùng Internet để liên
lạc và tìm kiếm thông tin. Trong đa số trường hợp, việc tìm kiếm thông
tin đó dẫn tới việc mua các sản phẩm trên Internet. Hiện nay có nhiều
người hơn bao giờ hết dùng máy điện toán cho mục đích thương mại điện
tử, nghĩa là để mua bán sản phẩm bằng phương tiện điện tử.
Chính
phủ một số nước cũng như một số tổ chức tư nhân và cá nhân đã phê phán
mạng lưới Internet. Chính phủ một số nước không tin cậy Internet vì họ
cho rằng khó có thể kiểm soát được những thông tin được đưa lên mạng.
Nhiều quan chức chính phủ cáo buộc các nhóm cực đoan đã dùng Internet
để phát tán những thông tin độc hại. Họ cho rằng những thông tin chính
trị nguy hiểm nên bị cấm. Những nhóm khác thì lo ngại rằng khó bảo vệ
được trẻ em tránh khỏi những thông tin và hình ảnh có tính cách khiêm
dâm được đưa lên mạng. Họ cũng kêu gọi nên cấm các loại thông tin này.
Những
người chỉ trích khác nói rằng càng ngày càng khó nhận ra loại thông tin
nào trên Internet đáng được tin cậy, khó phân biệt được thông tin nào
đúng, thông tin nào sai. Cũng có những người chỉ trích nêu lên sự kiện
là Internet không còn là một diễn đàn để tự do trao đổi thông tin và ý
kiến nữa. Họ nói rằng Internet đã biến thành một cửa hàng lớn để bán
sản phẩm, dịch vụ và thông tin, Và họ muốn Internet chỉ được sử dụng
vào mục đích nghiên cứu và giáo dục mà thôi.