Trong câu chuyện tuần này chúng tôi xin nói về những đứa con lai Hàn Quốc, kết quả của những mối tình ngắn ngủi giữa các quân nhân Nam Hàn và phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, qua các chi tiết do Trần Nam ghi nhận từ nhiều nguồn tin khác nhau tại Hoa Kỳ và Việt Nam:
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, ngoài Hoa Kỳ chính quyền miền Nam còn được sự hỗ trợ của một số nước khác như Australia, New Zealand, Philippine, Thái Lan, Nam Hàn dưới danh nghĩa các đồng minh trong thế giới tự do giúp miền Nam ngăn chận làn sóng đỏ. Trong số các nước châu Á hiện diện tại Việt Nam lúc bấy giờ, có lẽ Nam Hàn là nước có số quân tham chiến tại Việt Nam nhiều nhất.
Theo các tài liệu trong văn khố Hoa Kỳ thì tổng cộng có đến 312 ngàn 853 quân nhân Nam Hàn lần lượt đến chiến đấu tại miền Nam Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1973.
Trong một lãnh vực khác người ta cũng tin rằng quân đội Nam Hàn đã để lại Việt Nam từ 8 ngàn cho đến 15 ngàn trẻ em cha Hàn mẹ Việt mà hoàn cảnh của các em cũng bất hạnh giống như những đứa con lai khác sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tuy nhiên đối với những đứa con lai Mỹ thì chính phủ Hoa Kỳ đã có một chương trình nhân đạo cho phép các em lên đường sang Hoa Kỳ trong các chương trình được gọi là hồi hương cách đây gần 2 thập niên, trong khi các con lai Hàn Quốc thì lại không được may mắn như vậy.
Trong số các trẻ em sống trong cảnh bất hạnh mà bây giờ đã trưởng thành có anh Trần Đại Nhật, có tên Hàn quốc là Kim Sang Il. Anh Trần Đại Nhật nói rằng anh đã có một thời kỳ thơ ấu đầy bất hạnh và trông chờ có một ngày được đón nhận về quê hương của người cha như những đứa con lai khác được chấp nhận vào nước Mỹ:
TRẦN ĐẠI NHẬT: Cha của tôi là người Hàn quốc, còn mẹ của tôi là người Việt Nam, năm 1986, người Mỹ có chương trình nhận con lai. Trong giai đoạn này tôi nhận thấy rằng người Pháp đưa con của họ về Pháp bằng tàu biển, rồi đến thời kỳ của Mỹ thì họ đưa con lai về nước bằng đường hàng không nhưng Hàn Quốc thì họ bỏ con của họ giống như những đứa con lạc loài tại Việt Nam.
Theo lời anh Trần Đại Nhật thì trong 18 năm qua, anh đã tìm cách vận động với chính phủ Hàn Quốc, nhưng đã không mang kết quả, sau đó anh quay sang mưu tìm sự giúp đỡ của chính phủ Hoa Kỳ:
Anh Trần Ðại Nhật nói: "Năm 1989 chúng tôi làm hồ sơ gửi chính phủ Mỹ, đến năm 1992 khi tôi được mời phỏng vấn thì họ bảo rằng không nhận con lai Hàn Quốc. Lúc đó tôi có hỏi rằng con lai Philippine,hoặc là Tân Tây Lan, Úc, và 1 số con lai Pháp thì họ làm đi Mỹ được nhưng tại sao con lai Hàn Quốc là đồng minh mà lại không đi được thì họ bảo rằng con lai Hàn Quốc chưa thể giải quyết được trong thời gian này."
Dù vậy anh Trần Đại Nhật vẫn tiếp tục vận động, và theo lời anh thì các nỗ lực của anh không phải vì vấn đề tiền bạc mà chỉ muốn đòi hỏi 1 sự công bằng cho những người cùng chung hoàn cảnh với anh, vốn đã không được giải quyết thỏa đáng, mặc dù chiến tranh đã kết thúc từ lâu:
Anh Trần Ðại Nhật nói: "Thế thì từ đó cho đến bây giờ tôi đã âm thầm làm việc, tôi vận động cho tất cả những người bạn của tôi ở miền Trung có cha trong Sư Đoàn Bạch Mã, Sư Đoàn Mãnh Hổ và Sư Đoàn Thanh Long. Đến năm 2001, tôi có đến tại Hàn Quốc vận động nhưng họ chỉ ừ hử mà thôi. Cho đến năm 2007, vào tháng 4 vừa qua, có đài truyền hình SBS của Hàn Quốc họ đến Việt Nam họ trực tiếp làm với tôi và một số chương trình con lai khác nhưng họ chỉ trả lời 1 câu duy nhất là đừng đem những quá khứ đau khổ ra đối với việc này nửa, và họ sẽ cố gắng vận động sự giúp đỡ. Tuy nhiên đối với tôi thì việc tôi làm không phải là cần chính phủ Hàn viện trợ hoặc cho chúng tôi cái gì mà chúng tôi chỉ đòi hỏi sự công bằng cho người mẹ của chúng tôi."
Mặc dù chính phủ Hàn Quốc không có những chương trình giúp đỡ rõ rệt như chương trình hồi hương con lai của Mỹ nhưng theo lời anh Trần Đại Nhật thì một vài tổ chức nhân đạo của Hàn Quốc cũng có những hoạt động giúp đỡ các con lai nước Hàn:
Anh Trần Ðại Nhật nói: "Cũng có một số tổ chức Hàn Quốc đến Việt Nam vận động giúp đỡ con lai cũng làm việc này nhưng họ nhận con lai từ miền Trung vào thành phố Hồ Chí Minh để cho học nghề và học chữ. Trong giai đoạn đó thì không thể nào mà tất cả những đứa con lai học được. Có 1 trung tâm dạy nghề nhân đạo của Hàn Quốc tại Việt Nam mà đại diện là Mục Sư Kim Young Wang . Ông đã mở trường này kết hợp với Trung Tâm Dạy Nghề quận 3 để làm việc này, nhưng trung tâm dạy nghề và học chữ này cũng có nhiều oái oăm. Chẳng hạn như bản thân tôi khi bước vào trường này thì mỗi tháng tôi nhận được 80 ngàn đồng trong khi chi phí lên đến 250 ngàn đồng cho 1 tháng cho nên tôi không thể nào học được, và không thể nào lo cơm áo gạo tiền được. Có một số con gái không học được phải đi làm gái. Từ đó tôi mới phát sinh ra cái tư tưởng là phải đấu tranh bằng cách viết thư vận động rất là nhiều nhưng đa số chỉ là cá nhân mình làm cho nên người ta không trả lời. Cho đến năm 1993 tôi bắt đầu bước vào Đại Học."
VOA: Thưa anh trong hoàn cảnh đó làm thế nào mà anh có thể tiếp tục việc học lên đến Đại Học?
Anh Trần Ðại Nhật nói: "Lúc đó tôi vừa đi làm vừa đi học, tôi học được đại học báo chí , đến năm 1997 tôi tốt nghiệp và vận động sang Hàn Quốc. Năm 1999 tôi đi Hàn Quốc học và tiếp tục cuộc đấu tranh của tôi nhưng cũng không được. Đến năm 2000 tôi quay trở lại Hàn Quốc và tôi đã đấu tranh dữ dội. Lúc này tôi đang học tại 1 Đại Học Hàn Quốc có tên là Yang Se? nhưng tôi cứ ấm ức không thể học được bởi vì người ta cứ khinh rẻ những đứa con lai ở Việt Nam và họ nói rằng chúng tôi là những người vô học, những người lừa đảo cho nên tôi tự ái không học được ở Hàn Quốc."
Cũng theo lời anh Trần Đại Nhật thì ngoài tổ chức nhân đạo nói trên, còn có một nhóm phụ nữ Hàn Quốc từ Hoa Kỳ đã đến Việt Nam liên lạc với anh để tìm cách giúp đỡ các trẻ con lai Hàn Việt:
Anh Trần Ðại Nhật nói: "Khi đến Việt Nam nghe tôi nói như vậy thì họ nghe tôi nói hoàn cảnh của người mẹ cho đến người con lai rồi người cháu lai thì họ mới cảm động thì họ sẵn sàng đi về nước tìm các vận động giúp đỡ, đó là năm 2005, họ về nước và đến năm 2006 họ đến Việt Nam và bảo tôi gom góp danh sách các con lai để làm . Đến tháng 1 năm 2007 họ bắt đầu cho học bổng cho con của con lai được 30 học bổng , mỗi xuất như vậy là 20 đô và hàng tháng họ đều cho. Thí dụ như 1 gia đình 5 người thì họ cho đủ 5 người để đi học và họ đã cho được 30 người như vậy , và từ tháng này trở về sau thì họ cho 70 xuất. Họ là hội truyền giáo Light Mission, Truyền Giáo Ánh Sáng. Hiện tại họ là những phụ nữ Hàn Quốc làm việc này trên đất Mỹ. Từ cuối năm 2006 họ bắt đầu lập cái hội này để giúp đỡ các con lai Việt Nam. Họ có văn phòng của họ tại Los Angeles."
VOA: Thưa anh, anh có muốn trình bày thêm điều gì trước khi kết thúc buổi nói chuyện hôm nay?
Anh Trần Ðại Nhật nói: "Tôi cũng muốn nói thêm là tôi đã giúp tìm ra được cha của những đứa con lai rất nhiều nhưng tôi không có ham lợi . Tôi phải lặn lội từ Saigon ra miền Trung đến hang cũng ngõ hẻm để tìm ra những đứa con lai để lập thành cái hội con lai và đưa vào danh sách và gặp gia đình nào khó khăn thì mình sẵn sàng giúp đỡ cho họ. Khi đi như vậy tôi thấy rất nhiều hoàn cảnh đau thương, chẳng hạn như bị bệnh tâm thần, bị cụt tay cụt chân, bị tật bẩm sinh, không tiền phải đi làm gái, hoặc bị chồng bỏ. Đó là nỗi thương tâm đã dằn vặt tôi trong 18 năm trời và những việc của tôi làm đã mang lại rất nhiều kết quả."
Cám ơn anh Trần Đại Nhật, thưa quí vị, ngoài những đứa con lai Hàn Quốc còn để lại từ thời chiến, người ta nghĩ rằng một số con lai Hàn Việt sẽ tiếp tục ra đời qua các mối quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt và đàn ông Hàn quốc sau khi chiến tranh kết thúc.
Trong những năm qua, nhiều người đàn ông Nam Hàn đã đến Việt Nam để chọn người phối ngẫu, và họ là khách hàng của từ 2 đến 3 ngàn cơ quan môi giới hôn nhân Nam Hàn chuyên về các dịch vụ môi giới như vậy. Mặc dù trong thập niên 1990, hầu hết đàn ông Nam Hàn đến Việt Nam tìm vợ đều là những người ở nông thôn nhưng càng ngày càng có nhiều đàn ông ở thành phố cũng chọn người phối ngẫu tại Việt Nam qua các cơ quan môi giới quốc tế, và các dịch vụ này đã trở thành các hoạt động kinh doanh hái ra tiền cả tại Nam Hàn lẫn Việt Nam.
Tính đến năm 2006, mỗi năm có đến 5,000 cô dâu Việt Nam rời quê hương đi theo chồng về Hàn Quốc.