Trong những ngày vừa qua, những người Việt trong nước cũng như hải ngoại hầu như đều chú ý đến những sinh hoạt cho ngày Tết Nguyên Đán chứ ít ai còn nhớ đến một sự kiện lịch sử quan trọng xảy ra cách đây 33 năm có liên quan đến chiến tranh Việt Nam.
Đó là ngày ký kết hiệp định đình chiến, dẫn đến những biến cố làm thay đổi toàn bộ tình hình đất nước và khiến cho hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi sống lưu vong tại nhiều nơi trên thế giới, đồng thời cũng đã gây ảnh hưởng sâu rộng đến bối cảnh chính trị tại Hoa Kỳ. Mời quí vị theo dõi một số chi tiết về diễn tiến của việc ký kết này và những gì đã xảy ra sau đó do Trần Nam ghi nhận từ các nguồn tin nước ngoài nhân ngày đánh dấu việc ký kết hiệp định này cách đây hơn 3 thập niên:
Ngày 27 tháng Giêng vừa qua, nhằm ngày 28 âm lịch năm Ất Dậu, là ngày đánh dấu hiệp đình chiến tại Việt Nam, được ký kết cách đây 33 năm tại Paris giữa các phe lâm chiến.
Trên tờ The New York Times số xuất bản ngày 27 tháng Giêng năm 1973, nhà báo Flora Lewis từ Paris viết rằng hiệp ước đình chiến Việt Nam đã được ký kết trong ngày hôm nay trong bầu không khí yên lặng đầy bí ẩn vì không có một lời lẽ hoặc cử chỉ nào của những bên ký kết để cho thế giới có thể thở phào nhẹ nhõm và cảm thấy rằng cuộc chiến dai dẳng có sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã chính thức chấm dứt.
Tổng Thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là ông Richard Nixon, đã xuất hiện trên các hệ thống Truyền Hình để loan báo với quốc dân về điều mà ông gọi là hòa bình trong danh dự tại Việt Nam.
Cả Washington lẫn Hà Nội đều lên tiếng xác nhận việc ký kết hiệp định này, vốn bắt đầu có hiệu lực vào lúc 7 giờ chiều, giờ quốc tế, ngày 27 tháng Giêng năm 1973.
Một lực lượng quốc tế đã được thành lập để giám sát cuộc đình chiến tại Việt Nam, gồm có các nước Canada, Ba Lan, Hungary và Indonesia.
Tên chính thức của văn kiện này là Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh và Vãn Hồi Hòa Bình tại Việt Nam. Tuy nhiên nhà báo Flora Lewis nói rằng cái không khí lạnh nhạt và ảm đạm trong 2 buổi lễ ký kết riêng biệt đã phản ảnh những lo ngại là liệu hòa bình có được vãn hồi như cái tên của hiệp định hay không.
Theo nhà báo này thì những điều khoản trong Hiệp Định Paris rất mơ hồ, trong đó mỗi bên đều có thể diễn giải theo ý riêng của mình mà đôi khi có thể trái ngược nhau, và phe nào cũng có thể tuyên bố là mình đã đạt được thắng lợi.
Theo hiệp định vừa kể thì các tù binh phải được phóng thích trong vòng 60 ngày các lực lượng tác chiến của Hoa Kỳ cũng sẽ rời khỏi Việt Nam trong khoảng thời gian đó. Nếu đây là những gì mà Washington mong đợi, thì có thể nói rằng Hoa Kỳ đã đạt được mục tiêu của mình.
Nhà báo Flora Lewis cho rằng hiệp định hòa bình này cũng không rõ ràng chẳng khác nào chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến mà nhiều bạn bè của nước Mỹ đã xem như là 1 sự trợ giúp hào phóng cho một đồng minh yếu kém đang bị đe dọa, tuy nhiên cũng có nhiều nước đã xem như sự can thiệp của Hoa Kỳ như là một hành động của một nước lớn dùng sức mạnh để hiếp đáp một nước nhỏ.
Cũng theo báo The New York Times thì những buổi lễ ký kết đã diễn ra trong hai phiên họp. Vào buổi sáng những người tham dự lễký kết là các giới chức của trong các phái đoàn của 4 bên, trong đó có Ngoại Trưởng William P. Rogers của Hoa Kỳ, Ngoại Trưởng Nguyễn Duy Trinh của Bắc Việt, Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm của Việt Nam Cộng Hòa, và bà Nguyễn Thị Bình, Ngoại Trưởng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lúc bấy giờ được gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam. Vì chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có hàm ý không muốn công nhận chính phủ lâm thời miền Nam, cho nên tất cả những gì có liên quan đến chính phủ này đều được ghi trong một bộ tài liệu thứ hai. Tài liệu thứ hai này đã được ký vào buổi chiều với sự hiện diện chỉ có 2 bên là Hoa Kỳ và Bắc Việt.
Trong một bài viết mới đây về diễn biến này, được đăng trên báo The Washington Times, ngày 29 tháng Giêng vừa qua, nhà báo Stroube Smith, khi nhắc lại những buổi lễ ký kết này, cũng viết rằng hầu như ngay từ đầu người ta đã có những nghi ngại là liệu việc ký kết này có thật sự chấm dứt chiến tranh để người dân Việt Nam được hưởng một nền hòa bình lâu dài hay không, và trên thực tế thì những lo ngại đó không phải là vô căn cứ.
Hai năm sau khi các đơn vị tác chiến cuối cùng của Mỹ rời khỏi Việt Nam, Hà Nội đã phát động một cuộc tấn công đầu tiên. Trong 7 tuần lễ không có sự hỗ trợ về nhiều mặt của Hoa Kỳ, quân đội miền Nam, trước sự tấn công của một đối phương được trang bị hùng hậu về mặt vũ khí và trang thiết bị, đã phải rút ra khỏi một số vị trí quan trọng, và quân đội Bắc Việt đã chiếm giữ khu vực cao nguyên và vùng duyên hải phía Đông.
Sau đó quân Bắc Việt tạm ngưng, một phần là để củng cố lực lượng hầu chuẩn bị cho một cuộc tấn công có tính cách quyết định vào Saigon, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, và một phần cũng là để nghe ngóng chờ đợi xem Hoa Kỳ có hành động gì hay không. Sau khi biết rõ Hoa Kỳ không sẵn sàng quay trở lại Việt Nam, quân Bắc Việt tiếp tục cuộc tiến quân.
Một số người am tường thời cuộc lúc bấy giờ cho rằng những gì xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 75 là điều khó có thể tránh được sau khi cao nguyên miền Trung bị thất thủ trong khi Hoa Kỳ vẫn tiếp tục quay lưng trước những cuộc tiến quân ào ạt của quân Bắc Việt vào mền Nam bất chấp những gì đã ký kết trong hiệp ước đình chiến tại Paris.
Theo lời nhà báo này thì nếu ông Richard Nixon vẫn còn là Tổng Thống và không bị vướng mặc và những rắc rối trong vụ Watergate thì nền hòa bình theo hiệp định này có thể đạt được.
Sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam đã dần dần gia tăng sau khi Pháp thất bại trong trận Điện Biên Phủ, đưa đến việc chia đôi đất nước Việt Nam mà ranh giới là vĩ tuyến thứ 17.
Năm 1965 các lực lượng Hoa Kỳ đã bắt đầu đóng một vai trò tác chiến quan trọng trên một số chiến trường tại Việt Nam, và quân số Mỹ cứ tiếp tục gia tăng cho đến năm 1968 khi số quân tác chiến của Mỹ lên đến 529000 người, thì mới có chuyện cứu xét việc bớt quân số.
Chiến tranh Việt Nam, ngoài việc khiến cho người dân Mỹ trở nên chia rẽ trầm trọng vì những quan điểm bất đồng giữa các thành phần ủng hộ và chống đối chiến tranh, Hoa Kỳ còn phải trả một cái giá khá đắc khác.
Tính từ ngày mùng 1 tháng Giêng năm 1961, tức là ngày mà Hoa Kỳ bắt đầu ghi nhận số quân nhân Mỹ chết cho đến khi các lực lượng Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam vào năm cuối năm 1973, cuộc chiến kéo dài hơn 1 thập niên này đã gây thiệt mạng cho 58226 người Mỹ.
Về phía người Việt, con số này cao hơn rất nhiều. Theo các con số do nhà cầm quyền Việt Nam đưa ra hồi tháng 4 năm 1995, thì tổng cộng có 1 triệu quân tác chiến và 4 triệu thường dân đã bị thiệt mạng trong cuộc chiến tranh này. Nhiều người nói rằng đây là những con số có thể tin được.
Dù đã 33 năm trôi qua, tính từ ngày Hoa Kỳ rút quân về nước theo hiệp định Paris nhưng hậu quả của cuộc chiến này dường như vẫn ám ảnh trong quân đội Mỹ. Trong cuộc chiến tranh Iraq, nhiều người sợ rằng những gì từng xảy ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam có thể sẽ lại tái diễn trong cuộc chiến tranh Iraq.
Người ta vẫn không quên rằng sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, tinh thần của quân đội Mỹ đã bị sa sút trầm trọng, và phải mất khoảng 2 thập niên sau đó thì quân đội mới cơ hội tạo lại niềm tin khi người dân Mỹ hiểu được cuộc chiến tranh Việt Nam, và từ khi quân đội Hoa Kỳ đánh đuổi đoàn quân xâm lăng Iraq của nhà độc tài Saddam Hussein ra khỏi Kuwait vào đầu thập niên 1990.
Đối với những người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì có lẽ hầu hết đều không quên bản hiệp định hòa bình này. Không giống như tên gọi của nó, bản Hiệp Định này đã mở đầu cho những biến cố trọng đại, chẳng những đã làm thay đổi vận mệnh của đất nước Việt Nam mà còn ảnh hưởng lớn lao đến cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi cá nhân, của những người tị nạn, chỉ 2 năm sau khi hiệp định này được ký kết.
Đã hơn 3 thập niên qua nhưng những ký ức khổ đau dường như vẫn còn hằn sâu trong lòng của lớp người đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ sau ngày 30 tháng 4, mặc dù trong những năm dài sau đó đã có những thay đổi lớn lao từ phía những nước từng là kẻ thù trong quá khứ.