VOA phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Quốc Khải – Duy Ái thực hiện
1. Mới đây Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển tuyên bố rằng: vì có ít tiến bộ trong các cuộc đàm phán hồi gần đây cho nên hy vọng để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào cuối năm nay là thiếu thực tế, và có lẽ phải đến năm 2006 Việt Nam mới có thể gia nhập tổ chức mậu dịch toàn cầu này. Xin giáo sư cho biết diễn tiến này có hại hoặc có lợi như thế nào đối với kinh tế Việt Nam?
Việt-Nam là một trong khoảng 30 nước sau cùng chưa là hội viên của WTO. Nguyên tắc là vào WTO càng trễ càng có hại. Những điều hại chính gồm có:
(a) Vòng thương thuyết Doha có triển vọng hoàn tất trong năm 2005. Nếu Việt-Nam không vào được trước khi vòng Doha chấm dứt, luật lệ WTO mới khó khăn hơn sẽ áp dụng đối với những nước vào sau (luật lệ về lao động, môi sinh, dịch vụ, v.v.)
(b) Những nước vào trước Việt-Nam như Trung Quốc, Đài Loan, và Kampuchia chẳng hạn có quyền ra điều kiện để bảo vệ hàng hoá của những nước này trong khi đó có thể gây bất lợi cho Việt-Nam.
(c) Chế độ hạn ngạch áp dụng cho thị trường quần áo và hàng dệt đã được bãi bỏ vào ngày 1.1.2005. Những nước chưa phải là hội viên bị thiệt thòi (thuế hạn ngạch, nuớc buôn bán không bị hạn chế bởi hạn ngạch có thể lấn áp thị trường).
(d) Chưa phải là hội viên WTO thì sẽ không được luật lệ của WTO bảo vệ trong trường hợp kiện tụng.
Nếu Việt-Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006, Việt-Nam có thêm thời gian hơn để tính toán kỹ lưỡng trong việc thương lượng với các nước hội viên. Việc cải tổ luật pháp cho hợp với tiêu chuẩn của WTO cũng rất tốn nhiều thời giờ trong khi đó khả năng làm và tu chính luật pháp của Quốc Hội Việt-Nam rất giới hạn. Viện Nghiên Cứu về Kinh Tế và Chính Trị Quốc Tế của Việt-Nam, nhận định rằng Việt-Nam cần mướn nhiều chuyên viên ngoại quốc về luật pháp mới hi vọng sớm hoàn tất việc cải tổ liên quan đến một tổng số là khoảng 200 bộ luật. Nếu vội vã vào sớm sẽ không kịp cải thiện thị trường nội địa và tăng cường khả năng cạnh tranh như trong hoàn cảnh hiện nay.
Tôi xin nói qua về quá trình xin gia nhập Cơ Quan Thương Mại Thế Giới của Việt-Nam. Nhà nước đã nộp đơn xin gia nhập từ đầu năm 1995. Tuy nhiên việc cải tổ kinh tế được đẩy mạnh trong những năm 1986-1994, nhưng sau đó bị chậm lại. Tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu vào các năm 1997-1998. Việc chuẩn bị gia nhập WTO không đươc tích cực thưc hiện cho đến 2001 Việt-Nam mới tu chính hiến pháp để chấp nhận kinh tế thị trường. Cùng năm đó, Bộ Chính Trị của Đảng CSVN ban hành nghị quyết 7, tán thành việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và Quốc Hội Việt-Nam chính thức thông qua Hiệp Định Thương Mại Mỹ-Việt. Đến năm 2002 nhà nước mới ấn định thời hạn gia nhập WTO là trước 1.1.2005. Từ lúc đó những cuộc thương thuyết song phương mới thật sự bắt đầu và chương trình cải tổ kinh tế mới được đẩy mạnh hơn. Việt-Nam không thể vừa muốn cải tổ chậm lại vừa muốn vào WTO nhanh được. Đây là một điều giản dị. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo Việt-Nam có lẽ đã không thấy. Khi đến nói chuyện với sinh viên và giáo sư của Trường Cao Học về Quốc Tế Vụ của Đại Học Johns Hopkins vào năm 2003, bà Tôn Nữ Thị Ninh vẫn nghĩ rằng cải tổ chậm ở Việt-Nam là hợp lý. Nhưng thực tế là Việt-Nam có trách nhiệm phải thi hành những cam kết qui định bởi những thỏa hiệp song phương và đa phương trong thời hạn nhất định.
Cho đến nay Việt Nam mớí chỉ hoàn tất được thoả hiệp song phương với 6 nước: Cuba, LHAC, Singapore, Chile, Argentina, Brazil. Ít nhất còn phải thương lượng với 21 nước khác. Tổng cộng là 27 nước. Tuy nhiên Ủy Ban cứu xét đơn xin gia nhập WTO của Việt-Nam gồm tối thiểu 41 nước cộng với 25 nước hội viên của LHAC. [1] Những nước quan trọng đối với Việt-Nam là Hoa-Kỳ, Canada, Đại Hàn, Úc châu, Nhật Bản, Trung Quốc, và Ấn Độ.
a) Những nước Việt-Nam bắt đầu thương thuyết từ tháng 12, 2004: Hoa-Kỳ, Canada, Đại Hàn, Úc châu, Tân Tây Lan, Iceland, Thụy Sĩ, Na Uy, Colombia, và Paraguay.
b) Những nước Việt-Nam bắt đầu thương thuyết từ tháng 2, 2005: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, và Ái Nhĩ Lan.
Những vấn đề quan trọng trong việc thương thuyết là: chế độ đầu tư, bao cấp quyền buôn bán, doanh nghiệp nhà nước, hạn chế số lượng xuất nhập cảng biện pháp bảo vệ vệ sinh thực phẩm, quyền sở hữu trí tuệ, mở rộng thị trường nông nghiệp, dịch vụ, và nạn tham nhũng.
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã chậm thi hành những biện pháp cải tổ kinh tế cần thiết. Quốc gia này đã tạo một tiền lệ không tốt. Rút kinh nghiệm, các nước hội viên đã khó khăn hơn đối với Việt-Nam. Ngoài ra tiến trình gia nhập WTO còn bị trở ngại bởi sự thiếu nhất trí ở cấp lãnh đạo và tệ nạn tham nhũng trầm trọng ở Việt-Nam.
2. Song song với nỗ lực Tổ chức Thương mại Thế giới, giới hữu trách Hà Nội cũng đang ra sức vận động để Liên hiệp Âu châu công nhận qui chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Xin giáo sư cho biết việc thừa nhận đó đóng một vai trò như thế nào đối với nỗ lực khuyếch trương mậu dịch của Việt Nam, và trong vấn đề này, những đòi hỏi chủ yếu của Liên hiệp Âu châu là gì?
Khi được thừa nhận là có một nền kinh tế thị trường, và nếu xẩy ra kiện tụng về giá cả theo luật chống bán phá giá, Việt-Nam sẽ không bị các nước nhập cảng áp dụng công thức tự tiện để tính giá thành và áp dụng lệ phí chống bán phá giá để hạn chế nhập cảng như Hoa-Kỳ đã áp dụng đối với cá trê và tôm đông lạnh xuất cảng từ Việt-Nam. Mới đây Hiệp hội Các Nhà Sản Xuất Xe Đạp ở Canada đã kiện các nhà sản xuất Việt-Nam về việc bán phá giá xe đạp. Toà án thương mại Canada bắt đầu công cuộc điều tra. Năm ngoái, Việt-Nam cũng đã bị các nhà sản xuất xe đạp ở Âu châu kiện.
Đòi hỏi chủ yếu của LHAC gồm có:
a) Hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế (bao cấp, định giá, cho vay đặc biệt...).
b) Mức độ cởi mở của chính sách ngoại thương.
c) Mức độ cởi mở của chính sách đầu tư.
d) Nạn chợ đen.
e) Luật lệ minh bạch.
f) Quyền sở hữu trí tuệ.
g) Chính sách hối đoái.
Trước đây LHAC đã ban hành quy chế kinh tế thị trường cho Nga (1998), Trung Quốc (1998), và Ukraine (2000). Quyết định này nhiều khi có tính cách chính trị nhiều hơn là kinh tế. Ngoài Việt-Nam, LHAC đang nghiên cứu để ban hành quy chế kinh tế thị trường cho ba nước khác Albania, Kazakstan, và Georgia.
3. Năm 2002, khi ra sức để chống lại đơn kiện bán phá giá tôm ở Mỹ, các giới chức thương mại Việt Nam cũng đã vận động để Hoa kỳ công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nỗ lực đó đã gặp thất bại. Xin giáo sư cho biết nguyên do và hậu quả của sự thất bại này?
Bộ Thương Mại Hoa-Kỳ (TMHK) dựa vào các yếu tố sau đây để xếp loại các nước. Việt-Nam không thỏa mãn những điều kiện này nên bị coi là một nền kinh tế phi thị trường:
a) Giá trị của sản phẩm không thể được đo lường bằng giá cả và phí tổn một cách trung thực vì những can thiệp của chính quyền.
b) Tiền tệ của Việt-Nam không thể hoán đổi sang ngoại tệ một cách dễ dàng. Chính quyền đặt nhiều luật lệ quan trọng nhằm giới hạn việc sử dụng, chuyển nhượng đồng bạc Việt-Nam và hối suất.
c) Chính phủ khuyến khích đầu tư trực tiếp ngoại quốc, nhưng vẫn tiếp tục đặt ra luật lệ để hướng dẫn và kiểm soát đầu tư.
d) Mặc dầu phần lớn giá cả đã được thả tự do, nhưng Ủy Ban Giá Cả của nhà nước vẫn tùy tiện duy trì việc kiểm soát giá cả ở ngoài những khu vực độc quyền tự nhiên.
e) Việc tư nhân hóa những doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng tiến hành rất chậm chạp. Do đó tư nhân không thể cạnh tranh với khu vực công về các nguồn tài chánh.
f) Tư nhân không có quyền sở hửu đất đai. Chính phủ không có dự định tư nhân hóa đất đai nào trong tương lai.
Việt-Nam đã có những cố gắng vận động ngoại giao để được xem là một nền kinh tế thị trường nhưng đã thất bại. Khi có cuộc tranh tụng về vụ bán phá giá cá tra / cá basa vào năm 2003, nhà nước muốn chứng minh rằng kinh tế Việt-Nam là một nền kinh tế thị trường theo đó giá cả do luật cung cầu ấn định, không có sự can thiệp của nhà nước. Một vài kinh tế gia ủng hộ quan điểm của nhà nước Việt-Nam như TS Phạm Đỗ Chí và TS Vũ Quang Việt. Ông Chí cho rằng sự bành trướng mạnh của khu vực tư nhân ở mức độ 195% từ 1995 đến 2002 chứng tỏ sự thành công của chương trình cải tổ kinh tế ở Việt-Nam mà kết quả là thị trường mở rộng, hệ thống giá cả tự do và luật lệ được thi hành nghiêm chỉnh. [2] Ông Việt lập luận rằng chính phủ chỉ kiểm soát giá cả trong khu vực độc quyền của nhà nước như trong mọi nền kinh tế khác. Nhà nước cần can thiệp vào hệ thống ngân hàng để kiểm soát lãi suất và chương trình cho vay. Hệ thống cho thuê mướn đất cho phép việc sử dụng đất lâu đến 100 năm và quyền sử dụng này được chuyển nhượng. Như vậy hệ thống cho thuê mướn đất ở Việt-Nam tương đương với quyền tư hữu đất đai. [3]
Bộ TMHK trước đây đã xếp Liên Bang Nga, Hung Gia Lợi, Slovakia, các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Bang Sô Viết cũ vào loại kinh tế “phi thị trường”. Một số quốc gia này đã trở thành kinh tế thị trường. Trường hợp Việt-Nam sẽ gập nhiều khó khăn hơn. Bởi lẽ Việt-Nam vẫn tiếp tục chủ trương duy trì vai trò lãnh đạo của khu vực công trong nền kinh tế. Trái với nhiều nước theo xã hội chủ nghĩa cũ như Liên Bang Nga, Hung Gia Lợi, và Slovakia, với chủ trương dứt khoát nên đã chuyển đổi qua kinh tế thị trường nhanh chóng. Việt-Nam vẫn chủ trương một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt nặng vai trò chỉ đạo của Đảng, nhà nước, và xí nghiệp quốc doanh. Như vậy sẽ làm chậm sự chuyển đổi kinh tế cần thiết. Điều 15 của Hiến Pháp Việt-Nam xác nhận rằng “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Cách hữu hiệu nhất trong dài hạn là cải tổ toàn bộ nền kinh tế để tăng hiệu năng sản xuất. Trong ngắn hạn, Việt-Nam nên cải tổ ngay những kỹ nghệ xuất cảng. Một nước bị xếp vào loại kinh tế phi thị trường không có nghĩa là tất cả những khu vực kinh tế hay tất cả các vùng của quốc gia đó đều “phi thị trường” như chúng ta đã bàn ở trên. Nói một cách khác, trong một nền kinh tế “phi thị trường” có thể có những kỹ nghệ hoặc khu vực kinh tế theo thị trường (market-oriented industry). Luật lệ của Hoa-Kỳ công nhận như vậy. Luật thị trường của Hoa-Kỳ sẽ được áp dụng cho một kỹ nghệ / khu vực trong một nền kinh tế phi thị trường nếu kỹ nghệ / khu vực này chứng tỏ được 3 điều: (1) chính phủ không can thiệp vào việc ấn định giá cả và số lương sàn xuất trong kỹ nghệ / khu vực kinh tế liên hệ; (2) kỹ nghệ / khu vực kinh tế do tư nhân làm chủ, đơn doanh hoặc hợp doanh (privately or collectively owned); (3) Những vật liệu chính dùng trong việc sản xuất đều mua theo giá thị trường.
Một nước có một nền kinh tế thị trường cởi mở sẽ có chỉ số tư do kinh tế tốt. Chỉ số tự do kinh tế (Index of Economic Freedom) của Việt-Nam vào năm 2002 rất kém. Việt-Nam bịị xếp vào hạng 135 trong số 156 nước được kiểm tra. VN không còn bị gọi là một nước có một nề kinh tế áp bức (repressed economy) nhưng bị xếp loại là môt nước có nền kinh tế hầu hết thiếu tự do (mostly unfree) kể từ 2002 đến nay. Chỉ số tự do kinh tế của Việt-Nam được cải thiện đôi chút. Theo phúc trình 2005, Việt-Nam xếp hạng 137 so với 161 nước được điều nghiên. Chính sách ngoại thương gò bó, luật lệ buôn bán khắt khe, và bảo vệ quyền sở hữu ở Việt-Nam là những vấn đề bị đánh giá thấp nhất. Kế tiếp là chính sách đầu tư, nạn chợ đen, và khu vực ngân hàng và tài chánh. Đây là những nguyên do.
Vì không phải một nền kinh tế thị trường, nên VN dễ bị trừng phạt về bán phá giá. Công thức tính giá sản xuất đối với những nước không có nền kinh tế thị trường rất khác biệt, thường là tuỳ tiện, như đã nói ở trên.
Chú thích:
[1] Ủy ban cứu xét việc xin gia nhập WTO của Việt-Nam (Working party members): Argentina, Australia, Brazil, Brunei, Bulgaria, Canada, Chile, China, Colombia, Croatia, Cuba, Czech Republic, Egypt, EU and member states, Hong Kong, China, India, Indonesia, Japan, Rep of Korea, Kyrgyz Republic, Latvia, Lithuania, Malaysia, Myanmar, New Zealand, Norway, Panama, Paraguay, Philippines, Poland, Romania, Singapore, Slovak Republic, Slovenia, Switzerland, Chinese Taipei, Thailand, US, Uruguay.
[2] Chi Do Pham, “Is Vietnam a Market Economy, “ Potomac Investments and Research Associates, Washington, DC: February 13, 2003.
[3] Sasakawa Peace Foundation USA, “Is Vietnam a Market Economy ? Recent Reforms and Agenda -Summarizing essay.” Washington, DC: February 13, 2003.