Thảo Trường, hai năm sau đọc lại

  • Nguyễn Mạnh Trinh

Nhà văn Thảo Trường (ảnh: Nguyễn Xuân Hoàng)

1.

Nhà văn Thảo Trường từ trần cách nay hai năm, vào ngày 26 tháng 8 năm 2010. Có một câu hỏi mà tôi định sẽ phỏng vấn ông khi dự tính mời ông lên đài truyền hình Hồn Việt trong chương trình Tản Mạn Văn học của mình. Ông đã nhận lời nhưng rồi vì lý do này, lý do nọ không thực hiện được. Câu hỏi đó tới giờ tôi vẫn còn thắc mắc. Tại sao ông không viết như dự định một cuốn trường thiên tiểu thuyết về một thời kỳ lịch sử Việt Nam mà ông là một nhân chứng sau khi ra tù và định cư ở Hoa Kỳ? Thay vào đó chỉ là những truyện ngắn mà ông cho là “nhốt” một thời lỳ lịch sử vào những truyện ngắn….Những truyện ngắn này đã được in trong tuyển tập “Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết” và được chôn theo quan tài của ông như một tài sản quý báu nhất mang theo khi từ giã cõi đời. Tôi nghĩ câu hỏi này sẽ rất thú vị cũng như những câu hỏi khác mà tôi đã phỏng vấn ông trong bài ghi chép lại được trích đăng trong tác phẩm này. Từ ngữ “nhốt lịch sử vào những truyện ngắn” xem ra mở những cánh cửa của một thế giới mà một người thâm trầm hóm hỉnh như ông muốn bày tỏ.

Nếu suy nghĩ theo lối thông thường thì trường thiên tiểu thuyết như một bức tranh vĩ đại mà trong đó cuộc sống lịch sử được tạo dựng lại với tất cả những khía cạnh phức tạp của nó. Trường thiên tiểu thuyết ít ra cũng phải có bề dầy hàng ngàn trang như bộ “Chiến tranh và Hòa Bình” của Leon Tolstoy, với những nhân vật và cuộc đời của họ biểu trưng cho cả một thế thời giông bão. Ngược lại, ở Thảo Trường, thì ông lại dùng những truyện ngắn để chuyên chở cả một thời kỳ lịch sử. Có lúc ông cảm thấy đó là một công việc dễ đưa đến thất bại và băn khoăn không tin tưởng mấy vào sự thành công mà trong các cuộc phỏng vấn ông đã biểu lộ. Kể chuyện chiến tranh, có khi ông dùng ngôi thứ nhất xưng “tôi”, có khi ở ngôi thứ ba. Nhưng ở bất cứ vị trí nào, mẫu nhân vật ấy vẫn là tổng hợp của nhiều khuôn mặt có vẻ quen thuộc với thời đại chúng ta. Và, hình như ông có vẻ không được vừa lòng lắm vì dù sao ở khuôn khổ một truyện ngắn khó lòng chuyên chở được tất cả sắc thái của một thời đại. Dù rằng, với trường thiên tiểu thuyết, ông không phải là người xa lạ. Trường thiên tiểu thuyết Bà Phi đã được sáng tác trước tháng 4, 1975 dày hơn 2,000 trang và là một tác phẩm gây nhiều phản ứng cho độc giả. Trường thiên này đăng từng kỳ trên nhật báo Tiền Tuyến và nội dung của nó đụng chạm nhiều bộ mặt thực của xã hội nên đã gây ra sự nhức đầu cho chủ nhiệm /chủ bút.

Lần đầu tôi gặp Thảo Trường ở Hoa Kỳ khi tôi đưa ông đến gặp nhà thơ Nguyên Sa ở Irvine. Ông có nụ cười hiền nhưng đôi mắt hóm hỉnh pha chút ngạo đời. Tôi biết ông là nhà văn có cộng tác với các tạp chí Đất Nước của Nguyễn Văn Trung và Trình Bày của Thế Nguyên, Diễm Châu như tác giả “Vài ngày Làm Việc ở Chung Sự Vụ” kể lại. Có lần tôi hỏi ông có phải nhóm này chủ trương phản chiến không và Thảo Trường có phải là một nhà văn chủ hòa thì được ông trả lời là mỗi người có những chủ kiến chính trị riêng và cùng cộng tác chung với một tạp chí, một tờ báo không có nghĩa là có chung chính kiến. Nhà văn Thảo Trường là một quân nhân và qua những tác phẩm của ông nhìn ngắm chiến tranh tuy không có sự cổ võ chém giết nhưng cũng không có những ý tưởng thiên tả. Có thể nói, ông là một nhà văn dấn thân trong cái suy tư của một người nặng lòng với tình tự đất nước. Ông viết về những thực trạng dân tộc và tâm tư của một người phải bị bắt buộc sống trong thời thế như vậy. Sau này, có những lần nói chuyện với ông, Thảo Trường vẫn cho là mình xa lạ với từ phản chiến. Ông chỉ viết với một chủ kiến và ý định: “Tôi làm tác phẩm là để đời.”

Bây giờ, đọc lại tác phẩm của ông, nhất là tuyển tập “Những miểng vụn của tiểu thuyết” tôi thấy rõ cái ý định ấy. Trả lời câu hỏi: “Anh có nhiều thời kỳ cầm bút khác nhau, trước và sau năm 1975 là cái mốc phân cách. Vậy mục đích khi cầm bút có thay đổi không đối với anh?” Thảo Trường khẳng định: “Không. Trước năm 1975 tôi viết cũng chỉ muốn tác phẩm của mình để đời. Mười bảy năm sau 1975 không viết là vì bị chế độ chính trị khống chế. Nay thay đổi hoàn cảnh có thể viết được thì lại tiếp tục. Không có gì thay đổi cả. Điều này có nghĩa là chế độ chính trị không bắt tôi im được mãi, họ chỉ cản trở tôi được một giai đoạn thôi.”

Từ tác phẩm đầu tay là tập truyện Thử Lửa gồm 13 truyện ngắn xuất bản năm 1952, lúc ông vừa hơn hai mươi tuổi đã bắt đầu bộc lộ những suy tư của một người trẻ trong thời đại mà cuộc chiến tranh đang bộc phát và mường tượng được tình cảnh của những người ngơ ngác trước những nẻo đường lịch sử và đã bắt đầu nhuốm chất bi quan… đến “Chạy Trốn”, một truyện vừa thì khuynh hướng dấn thân đã rõ nét. Những nhân vật chạy trốn chính mình, chạy trốn một cuộc chiến vô nghĩa, chạy trốn những giả trá đời sống, chạy trốn khỏi cuộc chiến đang tăng cường độ. Chạy trốn nhưng lại vẫn phải tham dự dù châu thân đầy thương tích.

Cho đến những tác phẩm sau như “Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp” hay “Viên Đạn Bắn Vào Nhà Thục”, chiến tranh đã được quan sát từ những góc cạnh nhân bản nhất. Dù không thích chiến tranh, nhưng ông khác biệt với những tác giả nằm vùng ngụy hòa. Ông vẫn tự mình vạch ra một chiến tuyến dù bất đắc dĩ.

Đến những tác phẩm xuất bản ở hải ngoại thì suy tư ấy vẫn tồn tại và càng sâu lắng hơn từ những kinh nghiệm bản thân. Những cuộc đổi đời. Những thân phận dù chiến thắng hay chiến bại vẫn là những bi kịch pha lẫn hài kịch. Hậu quả một cuộc chiến, không phải chỉ ảnh hưởng đến một thế hệ mà còn đến nhiều thế hệ sau nữa. Dù thực tế có xóa nhòa nhưng ở hai bên chiến tuyến vẫn có sự phân cách dù ngay cả khi họ làm tình với nhau như trong truyện “Mây Trôi” với một cặp mà người nữ là một đảng viên và người nam là một sĩ quan tù cải tạo; và một cặp khác mà nữ là một góa phụ Cộng Hòa và nam là một phế binh bộ đội Cộng sản bị mù mắt. Những mối tình của thời hậu chiến vừa có nét thực của đời sống hiện tại vừa có chất bi hài của một thời đại lạ lùng…

Với Thảo Trường, cầm bút là một công việc không thể nào ngưng được. Bởi vì, tâm tư ấp ủ và nấu nung nếu không giải tỏa sẽ bùng vỡ không thể nào chịu đựng được. Viết là một cách thế giải tỏa hữu hiệu nhất cho tâm tư.

Khi đề cập đến phong cách viết của mình, tác giả “Những Miểng vụn của tiểu thuyết” bày tỏ:

“Tác phẩm là sáng tạo, nhưng đây đó có những chuyện giống người này người kia hay nhân vật trong truyện xưng tôi thì cũng không có nghĩa nhân vật là tác giả. Tất cả những gì mà cuộc sống của tôi đã trải qua, những gì mà tôi chứng kiến, những gì mà tôi nghe kể lại và những gì mà tôi đọc được ở sách vở thì đều có thể là chất xúc tác khi xây dựng tác phẩm. Có khi tôi lượm nhiều mẫu đời vụn ở nhiều nơi nhiều lúc sắp đặt vào một nhân vật. Đã có một người anh họ nói đùa với tôi “Coi chừng kể cho nó nghe nó lại ‘phang’ mình vào trong truyện thì bỏ mẹ!”Cũng có khi tôi đem những cái mà mình gán vào một nhân vật nào đó, như là mình cho mượn vậy, bởi vì chính mình, đã có khi phải đi mượn những mối tình của người khác đặt vào chỗ của mình. Riêng đời tôi, tôi chưa làm tác phẩm nào tự thuật. Tôi không có ý định viết hồi ký.”

Thực ra, hình bóng của tác giả lúc nào cũng phảng phất trong từng truyện. Cái quá khứ thật dài từ khi nhập ngũ vào lính đến lúc thành tù binh cải tạo đã trở thành một mảnh đất cực kỳ phì nhiêu cho bông hoa văn chương nở rộ. Tù mười bảy năm, trải qua bao nhiêu nỗi đoạn trường, thì hỏi sao thời gian ấy không ảnh hưởng khi cầm bút. Hay thời gian trong quân ngũ trước kia, lăn lóc từ chiến trường này đến sa trường nọ, biết bao nhiêu là chuyện đáng nhớ. Hay thời gian ở xứ người, một ông già lưu lạc bỡ ngỡ trước hiện tại mà tầm mắt thì luôn ngoái nhìn lại quá khứ. Cái vốn sống tích lũy được của một đời người có khi là động lực để viết nhưng cũng có khi là nỗi ám ảnh không rời.

Thành ra, không lấy làm lạ khi ông nhìn ngắm cuộc sống bằng con mắt đa nghi và với nụ cười chua chát. Mà sao không chua chát cay đắng cho được khi thời thế như những vệt roi hằn in trên da thịt mỗi khi đụng đến lại bỏng rát. Nhưng dù chua chát tình đời, dù thiên hạ vẫn đầy ứ những quân gian tà, tâm của ông vẫn soi rọi vào phần thiện hơn là phần ác. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, có khi loài vật đối xử với nhau còn tốt đẹp hơn loài người, vẫn có những tấm lòng hào hiệp, vẫn có những người nắm tay cứu vớt người cơ nhỡ. Và không phải trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người sẽ quay mặt bỏ mặc nhau mà không giơ tay một phần chia sẻ khốn khó. Khác với nhiều tác giả viết về tù ngục Cộng sản, ông không chú trọng vào việc kể tội chế độ hiện hữu mà chỉ kể lại những chuyện thực đã xảy ra bằng phong cách của một người coi mọi chuyện trên đời như một trò đùa.

Tôi lẩn thẩn tìm ra cho mình một cách sống mà tôi gọi đùa là ‘chủ nghĩa dựa cột’, biết thì thưa thốt không biết thì dựa cột mà nghe, ai nói gì làm gì thây kệ người ta, ông bà mình dạy thế …‘Kệ mẹ nó!’ tôi thường tự nhủ với mình thế mỗi khi phải chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt xung quanh mình. Được xếp chỗ nằm ngay sát cầu tiêu, tôi cũng thấy là một cái hay, đó là một chỗ không ai dòm ngó. Một mảnh đất xấu ít có nguy cơ bị xâm lấn. Mùi hôi khai ngửi riết rồi cũng quen sẽ không còn cảm thấy hôi khai nữa. Đúng ra, nếu chú ý đến nó thì sẽ nghe thấy hôi nhưng nếu lắng nghe tất cả mọi nơi thì chỗ nào cũng hôi cả, thế cho nên lại phải áp dụng sách kệ mẹ nó ‘cho qua tất cả’.” (trong truyện ngắn ‘Khẩu hiệu’).-Còn tiếp một kỳ

* Blog 'Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn hữu' là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
.