Galen, con người kiêu ngạo

Họa phẩm "Medicine in the Middle Ages" (1906), của họa sĩ Veloso Salgado, mô tả cảnh Galen giải phẫu một con khỉ.

Vị bác sĩ có ảnh hưởng y học trong suốt thế kỷ thứ 15 được sinh ra tại một thị trấn trước đây thuộc Hy Lạp, Pergamum (ngày nay là Bergama, Thổ Nhĩ Kỳ) vào khoảng 129 AD – sau Công Nguyên.

Claudius Galenus hoặc Galen là một thần đồng, viết ba cuốn sách lúc mới 13 tuổi. Sau khi đã hoàn tất toán học, canh nông, thiên văn học, và triết học, anh ta trở lại học y khoa và, trong 12 năm (thời đó học quá lâu) tại thành phố của mình và tại Smyrna, Corinth và quan trọng hơn, tại Alexandria.

Trở lại Pergamum, anh ta dành ba năm làm y sĩ cho các đấu sĩ, dùng các vết thương như cửa sổ của cơ thể để học cơ thể học.

Năm 162 AD, khi được 33 tuổi, Galen đến La Mã. Để mọi người biết mình là ai, ông ta biểu diễn cơ thể học và tài nghệ về giải phẫu, đôi khi trước sự hiện diện của nhiều nhân vật quan trọng nhất của đế chế. Một trong những chuyên môn của ông là mổ dây thần kinh ở cổ một con heo còn sống. Trong khi phục vụ họ thì con heo tiếp tục kêu và khi Galen cắt một trong những dây thần kinh cuống họng (mà ngày nay được gọi là dây thần kinh Galen) thì tiếng kêu ré của con heo ngưng và nhường cho tiếng reo kính trọng của quần chúng. Ít người biết rằng, với tiếng kêu khụt khịt này, Galen đã bác bỏ tin tưởng của nhóm Aristotelian là khả năng tinh thần nằm ở trái tim mà không ở não bộ, qua dây thần kinh. Galen mổ rất nhiều động vật, kể cả hai con voi nhưng mổ hai xác người là đáng kể.

Danh vọng của Galen ngày một lên cao đồng thời khách hàng cũng tăng cho đến khi có cả khách là vua Marcus Aurelius. Galen trở nên rất giầu, có lần ông đòi lãnh sự Boethus trả 400 tiền vàng (khoảng 15 lần nhiều hơn giá trung bình) để thực hiện một vụ mổ vào ban đêm cho vợ ông ta.


Thống nhất y khoa


Qua sự nghiên cứu về cơ thể học, Galen đóng góp rất nhiều cho sự hiểu biết về y học, mặc dù ông tập trung vào súc vật nhưng một số chi tiết đều không đúng khi áp dụng vào con người. Cũng như khi nghiên cứu về dây thần kinh, ông đã hiểu rõ vai trò của máu đối với các mô bào, chứng minh rằng động mạch và tĩnh mạch đều chứa máu và nói rõ hậu quả của các vết thương lên dây thần kinh cột sống. Ông không ngần ngại khi trái ý với các trường y khác ở La Mã. Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả là ông đã nhấn mạnh vào sự thống nhất của y học-đầu và bàn tay-thầy thuốc và giải phẫu gia, lý luận và kinh nghiệm.

Galen là một người ngạo mạn và khó chịu, dùng sự học và lời nói khéo của mình để đối thủ phải khuất phục. Khi bất chợt phải rời La Mã vào AD 166 để sống ở Pergarmum trong ba năm, ông e rằng sẽ bị các đối thủ sẽ ám sát. Có thể là ông đã viết tới 6000 tác phẩm nhưng trong đó không một lần nào nhắc nhở tới bạn bè mà cũng không có một bức tượng nào được dựng lên vì tài nghệ y học của ông - có lẽ không ngạc nhiên nhớ rằng ông từng nói: “Ai muốn tìm danh vọng chỉ cần biết những gì tôi đã hoàn tất.” Lạ lùng thay, chính sự khinh miệt của Galen với các bức tranh của Herophilus và đặc biệt là Erasistratus, người mà ông không ưa vì Alexandrian không tin tưởng vào bốn thể dịch: máu, đờm, nước mắt, sầu muộn, khiến ông ta viết rất dài về các gia trưởng y học để họ có chỗ đứng trong lịch sử y học.

Nhưng phần mà Galen viết và các những cải cách về cơ thể học của ông chỉ tới tay quần chúng vào cuối thời Trung Cổ. Và bất hạnh thay, số phận các bài viết về sau của ông cũng vậy. Galen đã nâng lý thuyết của người Hy Lạp về bốn thể dịch máu, đờm, nước mắt và sầu muộn thành y học tương đương với thánh lệnh và về sau này chúng sẽ là một phần của giáo điều. Những hoàn tất lớn lao của ông về dược khoa - các phương thuốc, mà không phương nào công hiệu, thường được dịch ra tiếng La Tinh từ nguyên bản Hy Lạp - vẫn được dùng để tham khảo trong nhiều thế kỷ; và cách chích máu xuất sắc của ông với điều được khen ngợi nhất đều chịu trách nhiệm về bệnh và nhiều tử vong.

Nhưng có lẽ tai hại nhất là Galen đã tin tưởng rằng mọi sự là một phần của việc lớn, phần mà ta có thể thấy được. Bất hạnh thay, nếu chứng cớ không hợp với kế hoạch này, ông ta sẽ phớt lờ nó hoặc cố gắng giải thích cách khác; mặc dù không có bằng chứng ông sẽ tuyên bố là giả thử. Chương trình vĩ đại này được người Thiên Chúa Giáo theo và họ thêm vào quan niệm về sự đau khổ của con người. Trong những thế kỷ kế tiếp, phê bình kế hoạch và bốn thể dịch đều bị phạt rất nặng. Do đó, sự tiến bộ của y học ngưng lại trong nhiều thiên niên kỷ.