Đường dẫn truy cập

Hỏi đáp Y học: Chứng đau thần kinh sau zona


Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Trong chương trình Hỏi đáp Y học tuần này, thính giả đài VOA Nguyễn Anh Dũng, ở Việt Nam, gửi câu hỏi thắc mắc về chứng đau thần kinh sau zona. Thính giả Nguyễn Anh Dũng hỏi như sau:

“Thưa Bác sĩ,

Mẹ cháu năm nay đã 60 tuổi. Cách đây 2 năm mẹ cháu bị zona thần kinh (shingles). Sau 5 ngày từ lúc xuất hiện mụn nước thì mới được dùng acyclovir. Hậu quả là mẹ cháu phải chịu biến chứng đau thần kinh sau zona (postherpetic neuralgia). Mẹ cháu đã được dùng giảm đau thần kinh neurontin, chống trầm cảm 3 vòng amitriplytine trong nhiều tháng nhưng hiệu quả rất kém.

Cháu thấy bên Mỹ họ dùng capsaicin là chất cay tách từ quả ớt để điều trị. Bên Việt Nam thì không có capsaicin được làm sẵn bởi các công ty dược phẩm, nên mẹ cháu dùng ớt nghiền bôi lên khoảng gần tháng nay, nhưng hiện chưa tiến triển gì.

Vậy Bác sĩ có thể cho biết là hiện nay có cách nào còn hiệu quả để điều trị đau thần kinh sau zona không ạ. Cháu tìm trên pubmed thì cũng ít tài liệu nói về hiệu quả của capsaicin. Nếu không có thì nên chú ý những gì để nâng cao chất lượng sống.

Cám ơn Bác sĩ.”

Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:

please wait

No media source currently available

0:00 0:19:29 0:00
Tải xuống

Chứng đau thần kinh sau zona (post herpetic neuralgia, PHN)

Bệnh dời ăn (zona, shingles, herpes zoster) do siêu vi herpes bệnh trái rạ (thuỷ đậu) gây ra (varicella zoster virus). Sau khi bệnh trái rạ lành rồi, các virus vẫn tiềm ẩn trong hệ thần kinh người bệnh, dù người đó không có triệu chứng gì cả. Trong một số trường hợp như bị stress, đề kháng cơ thể yếu, virus trái rạ "thức dậy' và sinh ra những mụt nước tụ tập trong một vùng bên phải hoặc bên trái cơ thể, và giới hạn trong "lãnh thổ" (dermatome) của một hai sợi rễ thần kinh xuất phát từ tuỷ xương sống. Ví dụ zona vùng ngực, ngang vú do virus xâm nhập các dây thần kinh từ đốt ngực T3-T4-T5. Vùng bộ phận sinh dục thì S 2-3 (sacral, do sacrum= xương thiêng).

Sau khi bị chứng “dời ăn”, lúc các mụt nước ngoài da đang lành hẳn, dây thần kinh cảm giác dermatome đó vẫn còn có thể bị hư hại, biến đổi, gởi về não bộ những tín hiệu đau đớn gây ra chứng đau thần kinh sau zona (post herpetic neuralgia, PHN), có thể kéo dài rất lâu, có khi suốt đời. Cơ chế chính của bệnh đau này là các thụ thể đau không có myelin (unmyelinated nocireceptor) nhạy cảm quá độ, và tạo cảm giác đau đớn đáng kể ngay khi chúng chỉ bị kích thích nhẹ. Ngoài ra cũng còn ảnh hưởng do một số dây thần kinh ức chế cảm giác đau (inhibitory fibers) bị hư hại và tổ chức các tế bào thần kinh bị thay đổi (rewiring, new connection in central pain transmission neurons-nôm na như râu ông nọ cắm cằm bà kia), do đó nguyên nhân có thể vừa cục bộ (peripheral, ngoại biên) mà cũng có thể ở luôn trên hệ thần kinh trung ương (central). Có những trường hợp bệnh nhân bị đau hậu nhiễm herpes mà không xuất hiện vết san thương ngoài da, gọi là zoster sine herpete.

Người bị zona dưới 60 tuổi, chỉ 10% bị đau hậu zona, người trên 60 tuổi đến 60% bị đau hậu zona; tuổi 70 trở lên, 75% sẽ bị đau PHN sau khi bị dời ăn. Sau một tháng có chừng 10% bị đau, sau ba tháng chừng 5% bị đau và sau một năm chỉ còn chừng 3% còn bị đau. Thuốc chữa gồm thuốc chống trầm cảm, thuốc chống co giật (như gabapentin), thuốc tê như lidocaine (xylocaine), capsaicin. Cho tới nay, các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân uống kháng sinh acyclovir sau khi nổi mụt zona ngoài da không làm cho tỷ số mắc chứng đau hậu zoster giảm đi đáng kể.

1) Thuốc chống co giật (anticonvulsivant) được dùng để giảm đau trong PHN: gabapentin (Neurontin), pregabalin (Lyrica). Có thể làm buồn ngủ, chóng mặt, gây ra những cử động bất bình thường, có cơ nguy gây té ở người già. Tuy nhiên, ở người già thuốc này có thể an toàn hơn là thuốc chống trầm cảm 3 vòng.

2) Thuốc chống trầm cảm 3 vòng (tricyclic antidepressant) như amitriptyline [Elavil] hay nortriptyline [Pamelor] ức chế kênh sodium (Natri). Có thể tác dụng chỉ xuất hiện sau nhiều tuần dùng thuốc phản ứng phụ có thể là áp huyết tuột lúc đứng dậy, tim đập loạn nhịp, mờ mắt, khó tiểu, bón.

3) Thuốc giảm đau loại opioid: vd morphine, methadone, oxycodone, có thể gây nghiện thuốc. Tramadol không phải là ma tuý, rất có ích cho PHN, nhưng vẫn có khả năng gây hiện tượng phụ thuộc vào thuốc và lạm dụng thuốc.
Kem aspirine (Aspercreme), dầu bạc hà (menthol), thuốc làm lạnh da chứa ethyl chloride (Chloroethane) có thể có ích làm giảm đau.

4) Thuốc dán (patch) chứa thuốc tê (lidocaine [Lidoderm] hay lidocaine + prilocaine [Emla]).

5) Thuốc capsaicin trích từ ớt, chỉ dùng sau khi vết thương ngoài da đã lành, các mụt nước đã khô, mày tróc rồi. Người dị ứng với chất này không được dùng. Chỉ giúp ích trong một số trường hợp, những thuốc chứa capsaicin ở nồng độ cao hiệu nghiệm hơn. Tuy nhiên, chừng một phần ba bệnh nhân bỏ cuộc vì không chịu được rát da. Thuốc capsaicin làm giảm đau bằng cách ức chế tác dụng của substance P là những neuropeptide phụ trách chuyển (neurotransmitters) những xung động (impulses) về đau và ngứa từ ngoại biên vào thần kinh trung ương. Capsaicin lúc đầu tạo nên một cảm giác nóng bỏng, tương tự như cảm giác cay trong miệng lúc ăn ớt, sau đó mới làm giảm đau. Thuốc có trên thị trường mua tự do ở Mỹ, tuy nhiên thuốc mua cần toa (Qutenza patch, 8% capsaicin) hiệu nghiệm hơn. Trong một khảo cứu đăng trên báo Lancet, 402 bệnh nhân được dùng để so sánh hiệu quả của capsaicin nồng độ cao (8%) và capsaicin liều thấp (0.04%) 60 phút/ ngày. Sau 2-12 tuần, nhóm liều cao có mức đau giảm đáng kể so với nhóm liều thấp (-29.9% vs 20.4%). Nên để ý là kết quả cũng giới hạn thôi, không phải ai cũng đau hẳn (3).

Ở dạng nước lotion, kem, dạng mỡ thoa, thuốc dán: Thuốc ở Mỹ cần thoa 3-4 lần/ ngày, cầm mang găng tay để thoa thuốc, và có thể phải dùng đều đặn 6 tuần trở lên mới thật sự đạt được khả năng của thuốc.

6) Kem aspirine (Aspercreme), dầu bạc hà (menthol), thuốc làm lạnh da (skin coolants) chứa ethyl chloride (Chloroethane) có thể có ích làm giảm đau.(2)

7) Những người bị PHN có mức vitamin trong máu thấp hơn trung bình. Dùng nhiều vitamin C hơn có thể có ích làm giảm cơn đau tự phát.

8) TENS: (transcutaneous electric nerve stimulation) : Một dòng điện phát ra từ một máy nhỏ chạy bằng pin kích thích vùng da đau theo tần số và cường độ điều chỉnh được, có lẽ vì những xung động (impulses) làm át đi các tín hiệu về đau được gởi về bộ óc. Đồng thời người ta cũng giả thuyết là TENS làm bộ óc sản xuất thêm chất endorphin làm giảm đau.

Phẫu thuật: (Nếu mọi cách chữa trị khác không có kết quả, tuy nhiên vẫn không hiệu nghiệm lắm)

• DREZ (dorsal root entry zone lesions): Bác sĩ giải phẫu cắt xương lamina phía sau cột sống, dùng sức nóng điện cực 'đốt' chỗ dây rễ thần kinh đi vào tuỷ sống, kết quả không khả quan lắm trong những trường hợp đau hậu zona (Friedman A.H., Bullitt E.)(4)
• Chích corticoid trong không gian trên màng cứng của tuỷ sống (epidural corticosteroid injection)
• Nerve block (ngăn chặn truyền dẫn dây thần kinh)

Thuốc chích ngừa Zostavax tương tự như thuốc chích ngừa thuỷ đậu tên Varivax nhưng ở liều cao hơn nhiều lần và đắt tiền hơn. Giảm zona được chừng 70%. FDA chấp nhận cho người 50 tuổi trở lên. Thuốc này ở Mỹ được bán khá đắt, trên dưới 200 đô la.

Tham khảo:
1) http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1002/14651858.CD006866.pub3/abstract;jsessionid=FD12B3EBA813DCCF565C4A34B374E71D.f01t03
2) http://www.nytimes.com/health/guides/disease/herpes-zoster/treatment-for-postherpetic-neuralgia.html
3) Binder A.; Baron R.: Postherpetic neuralgia: Fighting pain with fire
4) http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1474442208702424
5) Dorsal Root Entry Zone Lesions in the Treatment of Pain Following Brachial Plexus Avulsions, Spinal Cord Injuries and Herpes Zoster.
6) http://www.karger.com/Article/Abstract/99959

Bác sĩ Hồ vĂn Hiền

---------------------------------------

Cảm ơn bác sĩ Hồ Văn Hiền. Chúng tôi cũng xin cảm ơn thính giả đã tham gia chương trình Hỏi đáp Y học này.

Quý vị có thể nghe lại các bài giải đáp trên mạng Internet ở địa chỉ voatiengviet.com

Chúng tôi vẫn dành đường dây điện thoại để tiếp nhận các thắc mắc khác của quý thính giả về sức khỏe và y học thường thức. Số điện thoại dành cho mục Hỏi đáp Y học là 202-205-7890, ngày giờ nhận câu hỏi là thứ Ba và thứ Năm mỗi tuần, từ 8 giờ 30 đến 9 giờ 30 tối, giờ Việt Nam. Quý vị cũng có thể gửi câu hỏi cho chúng tôi bằng điện thư đến địa chỉ Vietnamese@voanews.com.

VOA có ứng dụng mới

Xem tin tức VOA trực tiếp trên điện thoại và máy tính bảng! Ứng dụng VOA có thiết kế mới và cải thiện khả năng truy cập tin tức. Các tính năng mà bạn yêu thích trước đây được tích hợp cùng các công cụ vượt tường lửa để truy cập tin tức VOA bằng 22 ngôn ngữ.

Tải ứng dụng VOA trên App StoreGoogle Play!

VOA Express

XS
SM
MD
LG